Thứ Hai, 30 tháng 6, 2014

Nguyên nhân Mỹ tấn công Việt Nam

Tôi đơn giản lo lắng cho đất nước của
mình khi nghĩ rằng thượng đế công bằng
 (Tổng thống Hoa Kỳ Thomas Jefferson)
Vào nửa cuối thế kỷ XIX, Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp. Sự gia tăng ý thức độc lập quốc gia sau Chiến tranh thế giới thứ I  dẫn đến vào năm 1941 tại Trung Quốc thành lập Liên minh vì độc lập của Việt Nam hay Việt Minh – tổ chức chính trị-quân sự hợp nhất tất cả những người chống đối chính quyền Pháp.
Những người ủng hộ các quan điểm cộng sản dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh giữ các chức vụ chủ chốt. Trong thời kỳ Chiến tranh thế giớ thứ II, ông tích cực hợp tác với Hoa Kỳ giúp Việt Minh vũ khí và đạn dược để đấu tranh chống Nhật Bản.

 Sau khi Nhật Bản đầu hàng, Hồ Chí Minh chiếm Hà Nội và các thành phố lớn khác của đát nước và tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa độc lập. Tuy nhiên Pháp không đồng ý với việc này và đưa đội quân viễn chinh vào Đông Dương, vào tháng mười hai 1946 bắt đầu cuộc chiến tranh thực dân. Đơn độc, quân đội Pháp đã không thể chiến đấu với những người du kích, và từ năm 1950 Hoa Kỳ đã bắt tay giúp đỡ Pháp. Nguyên nhân chính của việc Hoa Kỳ can thiệp là giá trị chiến lược của khu vực bảo vệ các đảo Nhật Bản và Philippines từ Tây-Nam. Người Mỹ cho rằng sẽ không đơn giản kiểm soát những vùng lãnh thổ này nếu họ không là đồng minh của Pháp.
Chiến tranh đã diễn ra bốn năm và đến 1954 sau khi người Pháp thất bại trong trận đánh ở Điện Biên Phủ, tình hình trở nên thực tế là vô vọng. Hoa Kỳ vào thời gian đó đã gánh hơn 80% các chi phí của chiến tranh. Phó tổng thống Richard Nixon đã đề xuất ném mom hạt nhân chiến thuật. Nhưng vào tháng bảy năm 1954 đã ký kết hiệp định Geneve, theo đó lãnh thổ Việt Nam tạm thời chia theo vĩ tuyến 17 (nơi khu phi quân sự) thành Bắc Việt Nam (dưới sự kiểm soát của Việt Minh) và Nam Việt Nam (dưới chính quyền người Pháp và sau đó công nhận độc lập của nó).
Vào năm  1960, John Kennedy và Richard Nixon tham gia cuộc tranh giành Nhà Trắng. Trong thời gian này, cuộc đấu tranh với chủ nghĩa cộng sản được xem là phong thái tốt, và bởi vì rằng ứng cử viên nào có chương trình chống “mối đe dọa đỏ” quyết liệt hơn, người đó chiến thắng. Sau khi chấp nhận chủ nghĩa cộng sản ở Trung Quốc, chính phủ Hoa Kỳ xem bất kỳ sự kiện nào ở Việt Nam như một phần của sự bành trướng cộng sản. Và điều này không thể chấp nhận được, và bởi vậy sau Hiệp định Geneve, Hoa Kỳ quyết định hoàn toàn thay thế Pháp ở Việt Nam. Ủng hộ người Mỷ, thủ tướng Nam Việt Nam Ngô Đình Diệm tuyên bố mình là tổng thống Cộng hòa Việt Nam. Sự cai trị của ông là sự thống trị ở một trong những hình thái tồi tệ nhất. Chỉ những người thân tín mà những người này bị nhân dân căm ghét còn hơn cả chính bản thân tổng thống đã được bổ nhiệm vào những chức vụ nhà nước. Những người chống chế độ đã bị tống vào tù ngục, tự do ngôn luận bị ngăn cấm. Chắc gì điều này phù hợp với Mỹ, nhưng vì đồng minh duy nhất ở Việt Nam không thể nhắm mắt là ngơ với điều này.
Như một nhà ngoại giao Mỹ nói: “Ngô Đình Diệm, dĩ nhiên, đồ chó đẻ, nhưng nó là đồ chó đẻ CỦA CHÚNG TA!”
Sự xuất hiện trên lãnh thổ Nam Việt Nam các đơn vị kháng chiến bí mật, thậm chí không được sự hỗ trợ từ phía Bắc, cũng là vấn đề của thời gian. Tuy nhiên, Hoa Kỳ chỉ nhìn thấy những quỷ kế của những người cộng sản trong tất cả. Việc tăng cường các biện pháp khốc liệt nhất tiếp theo chỉ dẫn đến vào tháng mười hai năm 1960 tất cả các nhóm hoạt động bí mật ở Nam Việt Mam thống nhất thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam, ở phương Tây gọi là Việt Cộng. Bấy giờ Bắc Việt Nam bắt đầu ủng hộ quân du kích. Đáp lại Hoa Kỳ tăng cường sự giúp đỡ quân sự cho Diệm. Vào tháng mười hai năm 1961, các đơn vị thường trực đầu tiên của Quân đội Hoa Kỳ đến đất nước -  hai đại đội máy bay trực thăng nhằm nâng cao khả năng di động của quân đội chính phủ. Các cố vấn Mỹ đào tạo và huấn luyện các binh sĩ và xây dựng các kế hoạch tác chiến. Chính quyền John Kennedy muốn chứng tỏ cho Khrushev thấy quyết tâm của mình tiêu diệt “căn bệnh truyền nhiễm cộng sản” và sẳn sàng bảo vệ các đồng minh của mình. Xung đột tăng lên và ngay sau đó đã trở thành một trong những lò lửa “nóng” nhất của cuộc chiến tranh lạnh của hai cường quốc. Đối với Hoa Kỳ, mất Nam Việt Nam dẫn đến mất Laos, Thailand và Campuchia và đe dọa Australia. Khi biết rõ rằng Diệm không có khả năng đấu tranh chống du kích một cách hiệu quả, các cơ quan tình báo Mỹ bằng bàn tay của các tướng lĩnh Nam Việt Nam, đã tổ chức đảo chính. Ngày 2 tháng mười một năm 1963 Ngô Đình Diệm cùng người anh của mình bị sát hại. Trong suốt hai năm tiếp theo, do kết quả của cuộc đấu tranh giành quyền lực cứ vài tháng một lần xảy ra các cuộc đảo chính và điều này cho phép quân du kích mở rộng các vùng lãnh thổ chiếm đóng được. Vào thời gian này tổng thống Hoa Kỳ John Kennedy bị sát hại, và nhiều người yêu thích “học thuyết lật đổ” nhìn thấy trong điều này mong muốn của ông kết thúc chiến tranh ở Việt Nam bằng con đường hòa bình và điều đó làm ai đó rất không thích. Giả thiết này là đúng sự thật, xét theo quan điểm của văn kiện đầu tiên do Lyndon Johnson ký ở chức vụ tân tổng thống, là việc bổ sung binh lính đến Việt Nam. Mặc dù trước cuộc bầu cử tổng thống, ông được đề cử như “ứng cử viên hòa bình” và điều này đã ảnh hưởng đến chiến thắng chắc chắn của ông. Số lượng binh sĩ Mỹ ở Nam Việt Nam tăng  từ 769 vào năm 1959 lên đến 23 300 vào năm 1964.
 Ngày 2 tháng tám năm 1964, tại vịnh Bắc Bộ hai tàu khu trục Mỹ, Maddox và Turner Joy, đã bị các lực lượng Bắc Việt Nam tấn công. Vài ngày sau đó, vào lúc đỉnh điểm của sự can thiệp trong bộ chỉ huy “Janky”, khu trục hạm Maddox thông báo bị bắn lần hai. Và mặc dù ngay sau đó, e kíp con tàu bác bỏ thông tin, tình báo nói về việc bắt được những thông tin mà trong đó những người Bắc Việt Nam thừa nhận đã tấn công. Quốc hội Hoa Kỳ đã bỏ phiếu với 466 “đồng ý” và không một phiếu nào “chống”, đã thông qua Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ cho phép tổng thống đáp lại cuộc tấn công bằng bất kỳ phương tiện nào. Điều này đặt bước đầu cho cuộc chiến tranh. Lyndon Johnson đã ra lệnh tấn công bằng không quân vào các căn cứ hải quân của Bắc Việt Nam (chiến dịch “Pierce Arrow”). Điều ngạc nhiên là quyết định xâm lược của Hoa Kỳ vào Việt Nam được phê chuẩn chỉ bởi ban lãnh đạo dân sự: Quốc hội, tổng thống, bộ trưởng quốc phòng Robert Macnamara và ngoại trưởng Dean Rusk. Pentagon đã phản ứng quyết định “giải quyết xung đột” ở Đông-Nam Á thiếu nhiệt tình.
Colin Powell, vào những năm đó là sĩ quan trẻ, nói : “Binh lính của chúng ta sợ nói với ban lãnh đạo dân sự rằng một phương pháp chiến tranh như thế sẽ dẫn đến sự thất bại được đảm bảo trước”. Nhà phân tích Mỹ Micheal Desch đã viết: “Việc phục tùng vô điều kiện của giới quân nhân đối với các nhà lãnh đạo dân sự dẫn đến, thứ nhất, tổn thất uy tín của họ, thứ hai, để cho Washington tự do tiến hành các cuộc phiêu lưu tiếp theo tương tự như Việt Nam”.
Cách đây không lâu ở Hoa Kỳ đã công bố tuyên bố của nhà nghiên cứu độc lập Matthew Ada, chuyên gia về lịch sử của Cơ quan an ninh quốc gia (cục tình báo và phản tình báo điện tử của Hoa Kỳ) về vấn đề rằng các thông tin chính yếu về sự cố ở Vịnh Bắc Bộ năm 1964 là giả mạo. Cơ sở của nó là báo cáo của nhà sử học NSA Robert Neynoka soạn thảo vào năm 2001 và được giải mã trên cơ sở Luật tự do thông tin (được Quốc hội thông qua vào năm 1966). Từ báo cáo đó thấy rằng các sĩ quan NSA đã phạm sai lầm không tiên liệu trước khi dịch thông tin nhận được từ radio. Các sĩ quan trưởng, thực tế ngay lập tức thấy rõ sai lầm, đã quyết định che giấu nó, và chỉnh sửa tất cả các văn bản cần thiết sao cho chúng chỉ ra cuộc tấn công Mỹ là hiện thực. Các quan chức cao cấp nhiều lần viện vào những thông tin ảo này trong các phát biểu của mình.
Robert Macnamara, nói: “Tôi xem việc nghĩ Johnson muốn chiến tranh là không đúng. Tuy nhiên chúng tôi cho rằng ở chúng ta có chứng cứ rằng Bắc Việt Nam gây căng thẳng cuộc xung đột”.
Và đây không phải là sự giả mạo cuối cùng của những thông tin do thám được bởi ban lãnh đạo NSA. Cơ sở của cuộc chiến  tranh ở Iraq cũng là thông tin chưa được kiểm chứng về “hồ sơ Uranium”. Tuy nhiên nhiều nhà sử học cho rằng thậm chí cứ cho là không xảy ra sự kiện Vịnh Bắc Bộ, Hoa Kỳ thế nào cũng tìm thấy nguyên nhân bắt đầu các hoạt động quân sự. Lyndon Johnson cho rằng Mỹ có nghĩa vụ bảo vệ danh dự của mình, áp đặt cho đất nước của chúng ta vòng xoáy chạy đua vũ trang, đoàn kết dân tộc, làm cho các công dân của minh xao lãng những vấn đề nội bộ.
Khi vào năm 1969 ở Hoa Kỳ diễn ra các cuộc bầu cử mới, Richard Nixon tuyên bố rằng chính sách đối ngoại của Hợp chủng quốc sẽ thay đổi mạnh mẽ. Hoa Kỳ sẽ không tham vọng vào vài trò giám sát nhiều hơn và muốn giải quyết các vấn đề khắp mọi nơi trên thế giới. Ông thông báo về kế hoạch bí mật kết thúc chiến tranh ở Việt Nam. Điều này đã được xã hội Mỹ chấp nhận một cách tốt đẹp vì mệt mỏi bởi chiến tranh, và Nixon đã chiến thắng trong các cuộc bầu cử. Tuy vậy trên thực tế kế hoạch bí mật là ở chỗ áp dụng không quân và hải quân ồ ạt. Chỉ trong năm 1970, máy bay ném bom của Mỹ đã ném số lượng bom ở Việt Nam hơn cả năm năm trước cộng lại.
Và ở đây cần nhắc lại thêm một phía liên quan trong chiến tranh – các tập đoàn Hoa Kỳ chế tạo vũ khí và đạn dược. Trong chiến tranh Việt Nam đã sử dụng hơn 14 triệu tấn bom đạn và nhiều lần lớn hơn số bom đạn sử dụng trên tất cả các chiến trường trong Chiến tranh thế giới lần thứ II. Những quả bom, trong đó có bom tấn (высокотоннажные  từ trong tiếng Nga) hiện bị cấm, đã san phẳng khỏi mặt đất hàng loạt các thôn xóm, làng mạc, còn ngọn lửa bom napalm và fosfor thiêu đốt hàng hectar rừng. Chất dioxin, là chất độc nhất, một thời được con người chế tạo ra, đã rải khắp lãnh thổ Việt Nam với số lượng hơn 400 kg. Các nhà hóa học cho rằng 80 gr đưa vào hệ thống cung cấp nước của New York, hoàn toàn đủ để biến nó thành thành phố chết. Vũ khí này bốn mươi năm đã tiếp tục hủy diệt, tác động vào thế hệ người Việt Nam hiện nay. Lợi nhuận của các tập đoàn quân sự Hoa Kỳ thu được là hàng tỷ dollars. Và họ không quan tâm đến chiến thắng nhanh chóng của quân đội Mỹ. Và không ngẫu nhiên quốc gia phát triển nhất thế giới, sử dụng những công nghệ tiên tiến nhất, số lượng binh sĩ lớn, chiến thắng trong mọi cuộc chiến tranh, dù thế nào cũng không thể thắng trận.
Ứng cử viên tổng thống từ đảng Cộng hòa Ron Pol nói như sau: “Chúng ta đi đến chủ nghĩa phát xít không phải kiểu Hitle, mà nói nhẹ nhàng hơn, thể hiện trong mất mát các quyền tự do của công dân khi các tập đoàn chi phối tất cả và chính phủ cùng nằm trên một chiếc giường với doanh nghiệp lớn”.
Vào năm 1967 Tòa án quốc tế về điều tra các tội ác chiến tranh đã tiến hành hai hội nghị, ở đó đã nghe các chứng cứ về việc tiến hành chiến tranh ở Việt Nam. Theo Lời tuyên án (verdict), Hợp chủng quốc phải chịu hoàn toàn trách nhiệm việc sử dụng vũ lực và tội ác chống hòa bình, vi phạm các nguyên tắc của công ước quốc tế đã được xác định.
“Trước những túp lều, - một cựu binh Hoa Kỳ nhớ lại, - những cụ ông, cụ bà đứng hoặc ngồi chồm hổm trong mưa bụi bên ngưởng cửa. Cuộc sống của họ mộc mạc như thế, toàn bộ đời họ trôi qua trong ngôi làng này và những cánh đồng bao phủ xung quanh nó. Họ nghĩ gì về những người nước ngoài xông vào làng xóm của họ? Họ hiểu thế nào về hoạt động thường xuyên của những máy bay trực thăng xé nát bầu trời xanh của họ; những chiếc xe tăng và xe xích, các đội tuần tiễu vũ trang dày xéo trên những cánh đồng lúa nơi họ cày cấy?”.
Причины нападения США на Вьетнам
topwar.ru và newsland.ru

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét