Cái gọi là “Nam Man, Đông Di, Tây Nhung, Bắc Địch” tất
cả đều không đáng nhắc đến, chỉ có Trung quốc mới là hạt nhân của văn minh. Điều
này biểu hiện ra một loại văn hóa hết sức cường liệt, thậm chí một loại chủ
nghĩa xô-vanh chủng tộc
Phỏng vấn học giả
Trung Quốc Đỗ Duy Minh.
- Khi mọi người bàn đến tính bảo thủ cố hữu trong bản thân văn hóa Trung
Quốc, thông thường vẫn nên lên vấn đề “duy ngã độc tôn“ (chỉ có ta là đáng tôn
trọng). Như vậy cũng có thể nói, từ cổ chí kim, văn hóa Trung Quốc đều có ý
thức duy ngã độc tôn, một loại khuynh hướng mục hạ vô nhân (mục không nhất
thiết), khuynh hướng này không những đả kích các luồng văn hóa đến từ nước
ngoài, mà còn làm gia tăng thêm nọa tính của văn hóa Trung Quốc nữa. Ngài nghĩ
sao về vấn đề này?
- Vấn đề này Phí Chí
Thanh cũng đã bàn đến rồi. Có quan điểm như sau: do Trung Quốc là một nước lớn
có cái gọi là “lễ nghi thiên triều“, có ý thức duy ngã độc tôn, xem những ngoại
nhân đều là những dân tộc phải đến triều cống, vì họ có những điều cần phải cầu
xin chúng ta, còn chúng ta thì chẳng cần cầu xin gì ở họ. Một khi họ đã đến
Trung Quốc thì chúng ta phải dùng một loạt những chế độ lễ nghi để cải biến họ
thành những phần tử có nhiệm vụ kính bái thiên triều. Từ đời Đường trở đi tình
hình đều như thế cả, cho đến đời Minh thì phát triển thành một loại ngông cuồng
tự đại tương đối rõ ràng, loại ngông cuồng tự đại này khiến cho Trung Quốc khó
lòng đối phó với sự thách đố của văn hóa Tây phương một cách thực tế, một cách
rốt ráo được. Cái gọi là “ Nam Man, Đông Di, Tây Nhung, Bắc Địch “tất cả đều
không đáng nhắc đến, chỉ có Trung quốc mới là hạt nhân của văn minh. Điều này
biểu hiện ra một loại văn hóa hết sức cường liệt, thậm chí một loại chủ nghĩa
xô-vanh chủng tộc.
Tôi cho rằng đối với
những trạng huống nêu trên, tất yếu cần phải tiến hành phân biệt ở những tầng
lớp sâu hơn. Không thể phủ nhận rằng Trung Quốc quả thật có một loại tư tưởng
văn hóa xem mình là trung tâm, nhưng đàng sau bối cảnh rộng lớn này thì tình
hình cụ thể rất phức tạp. Đời Đường, văn hóa Trung Quốc phát triển đến đỉnh cao,
nhưng đời Đường không có chủ nghĩa xem văn hóa Hoa Hạ làm trung tâm, mà lại có
tinh thần bao dung, tổng hợp rất lớn. Sau đời Đường, Hán tộc tại Trung Quốc
không những rơi vào cảnh quốc gia bại nhược mà phải còn chịu sự uy hiếp đặc
biệt lớn của các dân tộc thảo nguyên (như Mông Cổ), dân tộc Sâm Lâm (như Kim),
do đó quan điểm văn hóa trung tâm của Trung Quốc và kinh nghiệm về sinh tử tồn
vong mà nó phải gánh chịu có tương quan mật thiết. Đặc biệt trong thời gian gần
một ngàn năm lịch sử, quan niệm duy ngã độc tôn rất khó có sức thuyết phục. Đời
Tống đối với Liêu, Kim, Nguyên nhiều lần đã phải cam chịu xưng “thần”. Chu Hi,
một nhà tư tưởng có ý thức văn hóa Hoa Hạ rất mạnh mẽ, nhưng vẫn có những cảm
giác lo lắng, sợ hãi sâu sắc, ông lo sợ rằng động lực của trung tâm thế giới
không còn phạm vi Trung Quốc nữa, không những thế Trung Quốc đã bị ngoại nhân
xâm lược và phải đối diện với cái họa vong quốc. Đến đời Nguyên, tròn tám mươi
năm, hoàn toàn chịu sự can thiệp quấy nhiễu của văn hóa dị tộc, thành phần trí
thức bị biến thành một thứ “xú lão cửu” (lão già hủ lậu hôi thối). Cho đến đời
Minh, tình hình phòng vệ biên cương luôn luôn phức tạp, căng thẳng, một mặt
phải lo Mông Cổ, vì Mông Cổ có khả năng hứng khởi trở lại, một mặt khác phải lo
đối phó Mãn Châu. Tình cảnh biến hóa thịnh suy khôn lường, ngay cả hoàng đế
cũng bị bắt giữ, trong tình huống như thế, muốn có ý thức ngông cuồng tự đại
cũng không phải là việc dễ dàng. Cảm giác về mối nguy cơ rất mạnh mẽ thể hiện
trong tác phẩm của Vương Phu Chi và khẩu hiệu do Cố Viêm Võ đề xuất: ”thiên hạ
hưng vong, thất phu hữu trách“ (chuyện quốc gia còn hay mất, ngay kẻ thất phu
cũng có phần trách nhiệm) tất cả cho thấy không phải đây là ý thức duy ngã độc
tôn, tự ngã trung tâm, mà nên nói rằng đó là ý thức lo âu về sự tồn vong của
dân tộc.
Cái gọi là ý thức duy
ngã độc tôn, chủ yếu hình thành vào đời nhà Thanh, Mãn Thanh là một vương triều
do kẻ xâm lăng vào Trung Quốc kiến lập nên. Với mục đích hoàn thành việc khống
chế các vấn đề nội bộ, chính phủ nhà Thanh thái dụng sách lược văn hóa hoàn
toàn giống với sách lược của Nho gia, Tôn Khổng độc Kinh (tôn sùng Khổng Tử,
nghiên cứu kinh điển Nho gia), đó là những điều chính quyền nhà Minh không làm
được thì nhà Thanh đã làm được. Có thể nói vương triều nhà Thanh đã hoàn toàn
giải trừ được vũ trang của các phần tử Trung Quốc, khả năng phán đoán của giới
trí thức đối với một số vấn đề lớn cũng bị chính trị làm cho rối loạn. Đồng
thời, giới trí thức, đặc biệt là giới trí thức Hán tộc, khi không còn khả năng
tề gia trị quốc họ có cảm giác mình bị phân ly với thời đại, không còn thuộc về
thời đại này nữa. Cho nên cái gọi là bệnh ngông cuồng tự đại của thiên triều
vẫn chưa phát triển đầy đủ sau đời Tống, và ý thức duy ngã độc tôn của đời
Thanh cũng là do thời gian cả trăm năm không tiếp xúc với ngoại bang, đối với
văn hoá Tây phương hoàn toàn chẳng hiểu biết gì về hoàn cảnh khó khăn do chính
bản thân tạo ra.
- Nhưng mà chúng ta e rằng rất khó mà dùng hoàn cảnh suy bại của quốc gia
để phủ nhận sự tồn tại của ý thức duy ngã độc tôn, vào thời Hán Vũ Đế, Đổng
Trọng Thư yêu cầu “bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật“, điều này đúng là một
khẩu hiệu bài trừ các loại tư tưởng khác biệt với mình về phương diện học thuật
hay phương diện văn hóa. Sau khi cái gọi Nho thuật của Đổng Trọng Thư trở thành
văn hóa chính thống của Trung Quốc, tinh thần bãi truất và độc tôn e rằng đã
trở thành tính cách đặc thù của văn hóa Trung Quốc. Ngay cả khi đất nước lâm
vào cảnh suy vi, cũng rất dễ dàng kích phát những tình cảm “độc tôn“ tiến lên
một bước, vì những người yếu đuối với vấn đề tự tôn đôi khi cũng có mặc cảm,
không những thế mặc cảm này đôi khi còn trở nên quá thái nữa. E rằng đây là
hiện tượng “mặc cảm tự ti biến thành mặc cảm tự tôn“ (cảm tình đích hồi lưu)
chăng?
- Về vấn đề “duy ngã
độc tôn“, tôi cho rằng có thể lý giải từ hai góc độ. Góc độ thứ nhất, Nho học
đảm nhiệm chức năng hình thái của loại quốc giáo, phân tích cho cùng đã duy trì
được tại Trung Quốc trong một thời gian rất dài, có ảnh hưởng rất lớn. Góc độ
thứ hai, Nho học tại Trung Quốc, ngoài việc đóng vai trò một hình thái ý thức
chính thống, đối với xã hội Trung Quốc, đặc biệt đối với nhiều tầng lớp dân
chúng, thông qua rất nhiều con đường khác nhau mà phát sinh ảnh hưởng rất lớn.
Tôi cho rằng chúng ta đã cường điệu quá đáng ảnh hưởng của Nho học chính thống
thuộc phạm vi nhà nước. Tuy vấn đề đời Hán xuống chiếu ban hành “độc tôn Nho
thuật” là có thật, nhưng Hán Vũ Đế không phải là người chấp nhận tư tưởng Nho
học, ông ta hoàn toàn giống như Tần Thủy Hoàng, rất thích lập nên những chiến
công hiển hách, bị bọn phương sĩ mê hoặc, hơn nữa còn có tư tưởng pháp gia rất
mạnh, ví dụ như việc ông sử dụng Tang Hoàng Dương là một thắng lợi của phái
Pháp gia, điều này có phản ánh trong tác phẩm Diêm thiết luận.
Hơn nữa, Ngụy, Tấn,
Tùy, Đường đều không phải là các triều đại tôn sùng Nho học, mãi cho đến đời
Nguyên, Tứ Thư, Ngũ Kinh mới trở thành tiêu chuẩn cho chế độ khoa cử. Tôi không
phủ nhận ảnh hưởng rất lớn của Nho gia trong văn hóa chính trị Trung Quốc, đóng
vai trò như một nguyên tắc chuẩn mực trong việc trị nước, nhưng phân tích rốt
ráo vẫn còn có sự thẩm thấu trong đó nhiều nhân tố thuộc tư tưởng Pháp gia. Tôi
chỉ muốn cảnh giác với quan điểm của nhiều người: Nho giáo sở dĩ có thể thâm
nhập đến mọi phương diện trong đời sống xã hội, mọi tầng lớp nhân dân, hoàn
toàn không phải là nguyên nhân chính trị, mà còn do rất nhiều nhân tố khác.
Chúng ta có thể nhớ lại, Nho gia trong đời Hán mặc dù có địa vị rất cao, nhưng
đối với lý thuyết Hoàng Lão đang thịnh hành trong xã hội cũng không thể tùy
tiện phê phán. Ngụy Tấn có thể nói là thời kỳ mà Nho gia dần dần nắm được địa
vị, đương thời trong thị tông tộc, giải cứu gia pháp, làm cho Nho học, đặc biệt
là Kinh học và Lễ học phát triển trong cấu trúc kiến lập xã hội. Nhưng rất khó
giải thích điều này từ góc độ chính trị hóa. Do việc Trung Quốc bị ngoại tộc
xâm nhập, một số lớn gia tộc chạy về phương nam, và do ý muốn duy trì địa vị
gia tộc, tất yếu cần phải có một số qui phạm, lý tưởng. Đến thời nhà Đường,
Kinh học và Lễ học của Nho gia càng được phát triển rộng rãi (đại hào kỳ đạo).
Nhưng không còn nghi ngờ gì nữa, từ thời Ngụy Tấn cho đến đời Đường, tư tưởng
chủ đạo vẫn là Phật giáo và Huyền học, nếu xét trên bình diện hệ tư tưởng, mãi
cho đến đời Tống, Nho gia mới được trùng tân phục khởi, các học thuyết thân, tâm,
tính, mệnh mới được mọi người đề xuất, đối với Phật giáo trở thành đối ứng mang
tính sáng tạo mạnh mẽ. Do đó, khi xem xét vấn đề Nho giáo, không thể nào chỉ
căn cứ vào góc độ “độc tôn Nho thuật“ hay “nhất chi độc tú“ (chỉ có một cành
xinh đẹp) để giải thích, mà xem xét những đường kinh mạch của Nho giáo thẩm
thấu trong khắp mọi tầng lớp xã hội. Từ đời Hán đến nay, bất kể là triều đại
nào, nếu muốn tiến hành kiến lập các cấu trúc chính trị đều cần đến vai trò của
Nho gia. Điều này đóng vai trò hữu quan trong văn hóa chính trị cùng với Nho
gia, phản ánh một cách mạnh mẽ rõ ràng ý thức lịch sử và tinh thần cảm thụ văn
hóa đặc biệt của người Trung Quốc. Không biết điều này có làm tăng trưởng ý
thức duy ngã độc tôn hay bệnh ngông cuồng tự đại của người Trung Quốc hay
không? Tôi cho rằng trong vấn đề này có nhiều hoàn cảnh cụ thể mà chúng ta hoàn
toàn chưa nắm rõ. Đời Thanh quả thực chúng ta đã biết như thế, nhưng nhất định
phải có những nguyên nhân và duyên cớ sâu xa bắt nguồn từ các thời đại đi
trước.
(Theo Tập san Khoa học
Xã hội và Nhân văn)
REDS.VN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét