Hoàng
Tùng
Phần
mở đầu
Cuộc Hành Trình 2,5 Triệu
Năm Của Nhân Loại
1- Một nền văn minh mới đã xuất
hiện
Theo ước lệ được chấp nhận rộng rãi
trên toàn nhân loại lấy công cụ lao động làm nền tảng thì xã hội loài người đã
trải qua ba nền văn minh lớn: Đá (cũ, mới), kim loại, cơ khí. Nền văn minh thứ
tư xuất hiện với cái bóng đèn điện (tử) đầu tiên năm 1879 (có sách viết
1878.?). Như vậy là phải mất gần 3 triệu năm kể từ khi loài người tách khỏi các
loài động vật, đứng thẳng đi bằng hai chân đến nay mới đến ngưỡng cửa một nền
văn minh mới này, một nền văn minh sẽ đưa loài người đến chỗ hoàn toàn làm chủ
cuộc sống hoàn toàn người, chấm dưt sự tha hoá kéo dài. Nghĩa là từ khi đứng
thẳng đến nay, loài người vẫn chưa làm chủ đầy đủ thiên nhiên và tha hoá lẫn
nhau vì chưa tạo ra được những điều kiện vật chất và tinh thần đảm bảo mọi nhu
cầu của cuộc sống vật chất và trình độ phát triển trí tuệ chưa vướn tới trình
độ ấy. Vấn đề này, tuy còn là một đề tài tranh luận. Có khả năng hay không đáp
ứng mọi nhu cầu của cuộc sống vật chất vì nó vô hạn. Song nhận thức lạc quan
quả quyết rằng cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại có thể đáp ứng về
những nhu cầu ấy là có giới hạn.
Sự phát triển của con người và xã
hội kéo dài trong trạng thái mông muội. Nhịp độ phát triển càng ngày càng nhanh
hơn từ khi con người sáng tạo chữ viết, mở ra các nền văn minh cách đây khoảng
năm nghìn năm. Và một cuộc đột biến liên tục xẩy ra trong ba trăm năm gần đây:
thế kỷ 18, 19 và thế kỷ 20.
Sự phát triển trong thế kỷ 20 cao
hơn rất nhiều lần tất cả lịch sử phát triển của nhân loại.
Cuộc sống của con người trong bât kỳ
thời đại nào đều đầy rẫy đau khổ và tai hoạ nhưng loài người vẫn tiến lên theo
con đường của nó kể cả ba thế kỷ vừa nói trên. Chiến tranh dồn dập, qui mô càng
về sau càng lớn, tính dã man càng ghê sợ. Thiên tai, bệnh tật nặng nề. Tổng số
sinh mang chết do chiến tranh từ khi nó xẩy ra đến nay, các loại thiên tai,
bệnh tật, có thể bằng tổng số dân đang sống. Song dân số cũng tăng với cấp số
thiên văn. Khối lượng của cải vật chất và văn hoá được sản sinh cũng vậy.
Từ ba nghìn năm trở lại đây, sau
thời kỳ văn hoá truyền miệng, thần thoại, nhiều học thuyết và tôn giáo lớn nhỏ
lần lượt ra đời. Tất cả đều xuất phát từ nhu cầu giải thoát cuộc sống bât hạnh,
đầy tai hoạ của con người bằng những con đường khác nhau nhưng đều tìm được
giải pháp cải thiện tình hình.
Các tôn giáo khuyên người ta sống
thiện và cầu nguyện để có cuộc sống ở thế giới bên kia như mong đợi. Các học
thuyết chính trị nêu lên những chủ trương mang lại một nền cai trị công bằng,
coi trọng con người, song không mang lại kết quả hoặc bị lợi dụng để củng cố
nền thống trị của tầng lớp thế lực cầm quyền.
Từ thời cổ đại, ở một số nơi người
ta đã thực hiện những năm hình thức hợp tác như đề xuất hoặc góp phần thu nhập
của từng người để duy trì cuộc sống chung. Từ thế kỷ thứ 15 ở châu Âu, một lô
học thuyết xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa đề xuất các hình thức hợp tác
khác nhau nhằm để thực hiện cuộc sống công bằng nhân đạo nhưng không thực tế mà
bị đàn áp và phá sản.
Thế kỷ thứ 18 ở nước Pháp xuất hiện
ba nhà cách mạng dân chủ có ảnh hưởng lớn ở châu Âu và Bắc Mỹ: Voltaire,
Montesquieu, Rousseau - được gọi như những nhà sáng lập về tư tưởng của chủ
nghĩa tư bản, có ảnh hưởng lớn đến nhiều cuộc cách mạng ở một số nước Tây Âu,
đặc biệt ở nước Pháp.
Thế kỷ thứ 19, ở nước Đức hoặc nói
cho chính xác hơn là ở ba nước: Đức, Pháp, Anh, xuất hiện hai nhà sáng lập
triết học duy vật biện chứng và học thuyết cộng sản chủ nghĩa lấy nguồn cảm
hứng từ triết học cổ điển Đức, học thuyết kinh tế và học thuyêt xã hội chủ
nghĩa, cộng sản chủ nghĩa ở Pháp.
Sự tiếp cận của hai ông có nền tảng
khoa học nhờ đến lúc đó ở châu Âu mở đầu học thuyết: Thuyết Nhật Tâm của
Copernic cuộc cách mạng khoa học tự nhiên đã đạt được ba phát hiện lớn, khai
mạc thời đại và sự ra đời máy hơi nước cuối thế kỷ thứ 18, thoi dệt bay, lò
luyện thép, công nghiệp cơ khí. Tư duy của con người được nâng lên một tầm cao
mới, một bước ngoặt, là duy vật biện chứng.
Hoàn cảnh xã hôị lúc đó ở ba nước
nói lên là động lực trực tiếp của học thuyết cộng sản chủ nghhĩa. Nền công
nghiệp cơ khí của chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn tích luỹ ban đầu phá hoại
nền kinh tế nông nghiệp và nền phát triển công nghiệp phường hội sản sinh giai
cấp vô sản, chủ thể lao động của nền kinh tế công nghiệp đó, bị bóc lột cực kỳ
dã man. Sự xung đột quyền lợi tư sản - vô sản cực kỳ ác liệt, cuộc khủng hoảng
xảy ra rộng khắp ở đâu có công xưởng ở đấy có xung đột, nhiều khi đổ máu.
Một giải pháp đang là nhu cầu cấp
bách: giai cấp vô sản phải đoàn kết lại để bảo vệ mình. Học thuyết Mác là sự
đáp ứng đòi hỏi đó.
Tổng kết lịch sử loại người phê phán
học thuyết xã hội trước đó, Marx và Engels trình bày một học thuyêt mới bắt đầu
từ bản Tuyên ngôn của Liên đoàn những người công nhân, thợ thủ công, phái lưu
vong. Hai ông trực tiếp tham gia và lãnh đạo những cuộc đấu tranh và nổi dậy
của những người lao động Pháp, Đức, Bỉ, Hà Lan trong hai năm 1847 - 1848. Lời
kêu gọi chuyển phong trào dân chủ tư sản sang phong trào dân chủ vô sản không
được đáp ứng và bị đàn áp, hai nhà lãnh đạo này của giai cấp công nhân bị kêt
án rồi trục xuất sang Anh suốt đời. Hai ông tiếp tục lãnh đạo phong trào công
nhân và phát triển lý luận về cách mạng vô sản trong toàn cầu
Trong vòng trên một trăm năm, nửa
sau thế kỷ thứ 19 và cả thế kỷ thứ 20, chủ nghĩa cộng sản trở thành một thế lực
toàn cầu và là tác nhân những cuộc đấu tranh và thắng lợi tầm cỡ lịch sử.
Thắng lợi và thất bại đều có tầm cỡ
lịch sử toàn câu, thay đổi cục diện với hai chiều hướng khác nhau.
Nhìn lại tình hình thay đổi dồn dập
ba thế kỷ vừa qua dù chỉ một số nét khái quát là công việc to lớn của trí tuệ
toàn cầu, song, mọi người muốn nhận thức được bản chất nền văn minh mới và tiền
đồ của nó, không thể tránh một sự mạnh dạn cần thiêt đối với một giới hạn có
thể với tới, một sự tiếp cận gần như thoáng qua.
Trước nhiều khuynh hướng rất khác
nhau đã được bộc lộ trong đời sống tinh thần của nhân loạị, mỗi người có trách
nhiệm không nên tránh trình bầy quan điểm của mình.
Đang có rất nhiều cách nhìn về thời đại
thông qua các hiện tượng mới: tiền đồ của nền văn minh trí tuệ, quá trình toàn
cầu hoá đối với cuộc sống các dân tộc và cả loài người, chủ nghĩa tư bản sẽ
vĩnh viễn tồn tại với nền văn minh trí tuệ mà nó mở đường hay là sẽ tự tiêu
vong khi sự nghiệp toàn cầu hoá đã đạt giới hạn dẫu sự phát triển kinh tế văn
hoá, lối sống con người đến sự thay đổi về chất, bản chât hệ thống lý luận của
chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản trong nền công nghệ mới, nền kinh tế
mới. Một cách nhìn khách quan về vận mệnh của học thuyết Mác và những nguyên
nhân thành bại của nó là rất cần thiết trước khi tìm hiểu thực chất học thuyết
cộng sản chủ nghĩa.
Như lời mở đầu đã nói, hệ thống lý
luận của Mác về cách mạng cộng sản chủ nghĩa là sự tiếp cận đầu tiên có cơ sở
khoa học - chủ nghĩa duy vật - phân tích xã hội tư bản ở mấy nước Tây Âu mới ở
giai đoạn phát triển - hình thành, dự báo một cuộc cách mạng xã hội nhằm đánh
đổ chủ nghĩa tư bản, thiết lập một xã hội mới gọi là cộng sản chủ nghĩa, một xã
hội tự do, không có giai cấp, người bóc lột người trên toàn thế giới.
Bản phác thảo đầu tiên ấy là cơ sở
để phát triển sự lý luận gắn liền với cuộc đấu tranh xã hội từng bước đi sâu
vào những vấn đề cơ bản và những vấn đề cụ thể về quá trình đi từ xã hội hiện
tồn đến xã hội mới, mà bản phác thảo mới chỉ nêu ra một cách sơ sài, chưa qua
kiểm nghiệm.
Phương pháp tìm tòi khoa học mà tự
biện luận, không chấp nhận đối thoại bình đẳng, nhất thiết bác bỏ theo kiểu kể
cả những quan niệm khác với mình, nguồn cảm hứng dựa nhiều vào nguồn cảm hứng
của mình.
Nhiều vấn đề quan trọng trong hai
quá trình lớn cuộc cách mạng chưa được tiếp cận (quyết định):
·
Ai đánh đổ ai ?
·
Ai là chủ, ai là đầy tớ ?
·
Ai phải nghe ai ?
Cách mạng chỉ thật sự của quần chúng
trong lúc đánh đổ quyền lực cũ. Sau khi thiết lập quyền lực mới quần chúng là
đối tượng cai trị, quyền lực của một thế lực thống trị và toàn diện chưa thấy
trong lịch sử độc thoại, không chấp nhận đối thoại.
2.- Ba thế kỷ biến đổi dồn dập
Công cuộc phục hưng diễn ra ở Italia
bắt đầu từ cuối thế kỷ XIV chuẩn bị về tư tưởng cho sự bùng nổ văn hoá, khoa
học kỹ thuật các thế kỷ sau đó. Châu Âu nói đúng hơn là mấy nước phát triển của
Tây Âu, hình thành đỉnh cao, trung tâm của nền văn minh thế giới kéo dài cho
đến ngày nay. Sự sống lại của nền văn minh, văn hoá - cổ đại Gréco - Romain và
phong trào phê phán tôn giáo mở ra một bước ngoặt lớn. Sự phát triển của lịch
sử bao giờ cũng tuân theo những quy luật vận động tự nhiên như Lão Tử nhận định
một cách thần bí “Đạo” đồng thời thể hiện những hiện tượng đặc thù. Nền văn
minh cổ đại này ra đời chậm hơn các nền văn minh Ai Cập, Lưỡng Hà, Hoa Hạ,
Hindu. Song rực rỡ hơn, nổi bật là sự xuất hiện nhiều trường phái tư tưởng
triết học và các nhà khoa học tự nhiên: Pythagore, Euclide, các nhà duy vật chủ
nghĩa Démocrite, Héraclide, và những cái đầu lớn: Socrate, Platon, Aristote,
văn học, nghệ thuật là đặc sắc hơn các nước khác.
Nền văn minh này là sản phẩm của một
nền kinh tế có sức sống cao hơn so với các nền kinh tế nông nghiệp đóng kín
châu A, vì thế nông nghiệp bị miệt thị.
Nền kinh tế của các nhà nước thành
thị thủ công kết hợp với nền thương nghiệp và giao thông, nhất là qua đường
biển.
Ở các thành bang, nền giáo dục, và
văn hoá phương Tây rực rỡ bắt đầu từ Gréco rồi mở rộng ra Romain. Lúc đầu, đạo
Kito bị đàn áp, từ thế kỷ thứ Tư được nhà nước thừa nhận, nhờ đó phát triển
mạnh, đẩy lùi nền văn hoá tiến bộ nói trên. Cuộc phục hưng bị phản kích đạo
Kito chuẩn bị cho châu Âu tiến vào một nền văn minh mới, phát triển khoa học,
trước hết là khoa học thực nghiệm. Năm 1789 James Watt hoàn thiện cái máy hơi
nước đầu tiên và năm 1879 Edison T.A, hoàn thiện cái bóng đền điện đầu tiên mở
đường cho một cuộc cách mạng công nghiệp, cách mạng khoa học kỹ thuât và nền
dân chủ tư sản.
Trong 3 thế kỷ 18, 19 và 20 diễn ra
dồn dập những biến đổi về kinh tế, xã hội ở châu Âu và ảnh hưởng bằng cách này
hoặc bằng cách khác đến toàn thế giới. Cuộc cách mạng khoa học, cách mạng công
nghiệp đi liền với cách mạng dân chủ. Bắt đầu từ Hà Lan, đến Anh, Pháp, Tây Ban
Nha, Bồ Đào Nha lần lượt xuất hiện chính quyền tư sản với sự diễn biến và hình
thức khác nhau. Trong cuộc cách mạng dân chủ ở nước Pháp là tiêu biểu của điển
hình cách mạng dân chủ tư sản. Chủ thể cách mạng là đẳng cấp thứ ba, trong đó
có những nhóm người tư sản đầu tiên, nổi dậy đánh đổ chế độ phong kiến.
Nước Nga, làm khác, vua Pierre thứ
nhất, chủ động tiến hành cách mạng công nghiệp.
Song nền dân chủ ban đầu do các nhà
trí thức đại biểu cho các lực lượng tham gia cách mạng, sau đó lại do người của
phe này Napoléon Bonaparte lập lại đế chế và xây dựng nền tảng chủ nghĩa tư
bản. Ơ nước Anh, bắt đầu người ta giết vua, sau đó lập lại và đi theo con đường
thoả hiệp giai cấp - quân chủ lập hiến. Các nước châu A đầu tiên tiến hành cách
mạng công nghiệp qua hoàng đế Meiji.
Thế kỷ thứ hai mươi là thế kỷ diễn
ra cuộc chuyển tiếp cực kỳ nhộn nhịp của hai cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật
- cách mạng công nghiệp và cách mạng khoa học công nghệ. Cuộc cách mạng diễn ra
với diện rộng bao gồm tất cả các ngành khoa học và dẫn đến sự phân ra nhiều
ngành nhỏ của cả bốn ngành khoa học cơ bản: Toán - Lý - Hoá- Sinh, cả vĩ mô và
vi mô.
Cuộc cách mạng thứ nhất kết thúc khi
cái bóng điện đầu tiên ra đời cũng như cuộc trước bắt đầu từ cái máy hơi nước
và bóng đèn điện (1789-1980). Tên gọi cuộc cách mạng này ngày càng mở rộng,
người ta có thể gọi bằng nhiều tên: cách mạng khoa học, cách mạng thông tin.
Hoặc gọi một cách khác: làn sóng thứ ba sau làn sóng thứ nhất là nền kinh tế
thủ công, làn sóng thứ hai là cuộc cách mạng công nghiệp cơ khí.
Loại cách mạng cơ bản sức sản xuất
này đều là sản phẩm trí tuệ con người, sự khác nhau là trình độ. Cuộc cách mạng
này là nền tảng vật chất của nền sản xuất mà trí tuệ trở thành sức sản xuất
trực tiếp, hàm lượng trí tuệ trong sản phẩm chiếm gần như toàn bộ.
Đó là nền kinh tế trí thức hoặc nền
kinh tế mới. Sàu 2,5 triệu năm, từ chỗ chỉ biết sống bằng của cải của giới tự
nhiên tiến lên làm ra của cải ngày càng nhiều bằng kỹ thuật sản xuất ngày càng
cao. Nói chung lao động cơ bắt vẫn là chủ yếu. Cuộc cách mạng này đưa con người
đến chỗ nhận thức đầy đủ hơn thiên nhiên, sử dụng nó cho cuộc sống của mình, từ
chỗ phải chịu đựng sự tha hoá, tiến tới trở thành con người chân chính. Đây là
con đường cơ bản sự phát triển lịch sử vì vậy phải thừa nhận kỹ thuật sản xuất
là nhân tố, động lực cơ bản của phát triển xã hội và con người. Cuộc cách mạng
này không thể áp đặt đựơc, song con người đủ trình độ đã đạt được có thể xác
định được phương hướng tìm tòi, nghiên cứu có mục đích cụ thể. Sự tác động của
các ngành vào việc xác định các thiêt chế về kinh tế, chính trị xã hội. Khắc
phục từng kỹ thuật sản xuất không thể tuỳ tiện làm theo ý muốn.
Làm sai ắt phải trả giá. Lịch sử ba
triệu năm vừa qua đã chỉ rõ cho chúng ta những bài học, những thảm hoạ cực kỳ
đau đớn do mưu đồ áp đặt chế độ kinh tế chính trị xã hội.
Ba trăm năm vừa qua là thời gian
phát triển gấp nhiều lần ba triệu năm. Dân số tăng cấp số nhân. Nạn nhân mãn đã
thành hiện thực. Hai loại cách mạng chính trị, xã hội diễn ra dồn dập: cách
mạng tư sản, cách mạng vô sản, cách mạng giải phóng thuộc địa. Chiến tranh cũng
vậy, quá nhiều những tai hoạ khủng khiếp.
Chiến tranh thuộc địa của các nước
công nghiệp phân chia thế giới là hai cuộc chiến tranh thế giới. Nhân loại phải
trả giá bằng mấy trăm triệu mạng sống và sự phá hoại rộng khắp..
Ây thế mà con người vẫn đeo đuổi
cuộc chạy đua cướp phá, áp đặt.
Học thuyết dân chủ của ba nhà tư
tưởng thế kỷ thư 18, chủ trương thiết lập chế độ tư hữu với mọi nơi, mọi người.
Cuộc sống diễn ra là sự hình thành chế độ tư hữu của giai cấp đại tư sản đến
mức độ của cải loài người tìm ra các thế lực siêu độc quyền quốc tế chiếm 80%
và ở những nước tư bản độc quyền ấy của cải tập trung cực đoan hơn vào mấy trăm
tỉ phú.
Học thuyết xây dựng chế độ công hữu
đi vào cuộc sống biến thành chế độ công hữu và vô chủ cụ thể (?), nhà nước áp
đặt tất cả lại biến thành chế độ vô chủ cuối cùng, ắt phải tan rã.
Hiện nay là công cuộc toàn cầu hoá.
Mọi người có nghĩa vụ tìm hiểu cuộc sống của ngôi nhà chung toàn cầu mà có mỗi
người ở trong đó.
Phần thứ nhất.
Bản Chất Chủ Nghĩa Mác
Mấy nghìn năm vừa qua hoặc nói cụ
thể hơn là ba nghìn năm, loài người, qua nhiều bộ phận khác nhau đều chịu tác
động của học thuyết này hoặc học thuyết khác, tông giáo này hoặc tông giáo khác
nhau, được phát huy chịu tai hoạ khác nhau nhưng chưa một thuyết nào đạt mức
hoàn thiện. Cuộc sống vẫn cứ thế trôi qua, mỗi người hoặc kiên trì hoặc dũ bỏ
tín ngướng học thuyết mà mình theo đuổi. Không có một cuộc thẩm định đúng hệ
quả của nó và đây là một vấn đề cực kỳ lớn, cực kỳ rắc rối, một món nợ lịch sử
khó trả càng nợ lâu tiền lãi càng chồng chất. Sau sự tan rã sụp đổ lớn của hệ
thống các nước xã hội chủ nghĩa, hoặc hiện tượng tâm lý nổi bật diễn ra rộng
khắp thế giới. Một bên là tâm trạng của những người trong hệ thống tư bản chủ
nghĩa. Nói tan rã cả hệ thống vì trong khi các nước trong hệ thống SEV và NATO,
cùng mấy nước khác như: Nam Tư, Mông Cổ, Anbani cũng sụp đổ theo, Trung Quốc,
chủ nghĩa xã hội đã bị bác bỏ trong thực tế trong quá trình cách mạng văn hoá,
nhờ sự chuyển hướng từ năm 1978 mà nền kinh tế Trung Quốc đứng dậy được, xã hội
ổn định dần đi vào giai đoạn phát tiển trên con đường khác. Việt Nam không đổi
mới thì khó lòng mà đứng vững. Các nước Cuba, Triều Tiên, phải vật lộn hêt sức
vất vả còn nhiều vấn đề chưa giải quyết. Lào trụ được và phát triển là nhờ hoàn
cảnh có chỗ dựa tương đối vững.
Phía tư bản chủ nghĩa thì Mỹ là đối
thủ cũng tầm cỡ, trở thành một siêu cường duy nhất lập tức hành động mở rộng
không gian không chế gọi là địa lý chính trị hình thành vòng vây khép kín các
nước đối thủ, vẫn là có thể vươn tới một siêu cường mới. Nhiều cuộc chiến tranh
độc ác lần lượt diễn ra trong mười năm cuối cùng của thế kỷ trước và mấy năm
đầu của thế kỷ này.
Trong thế kỷ thứ 20 - Liên Xô, các
nước xã hội chủ nghĩa và các nước chịu tác động của nó đã bao phen làm đảo lộn
thế giới: chọc thủng một dinh luỹ lớn của chủ nghĩa đế quốc toàn cầu - Cách
mạng tháng 10 - đánh thắng chủ nghĩa phát xít quốc tế, nếu không các nước tư
bản chủ nghĩa còn lại nhất định bị ba nước phát xít xơi tái. Nhờ thắng lợi đó,
hệ thống các nước thuộc địa có thời cơ nổi dậy, bằng nhiều hình thức khác nhau,
chấm dứt cái vòi thứ hai của con bạch tuộc như Hồ Chí Minh dự báo từ những năm
1920. Đó là những đảo lộn tích cực mở ra cục diện mới nhưng không thể không
khẳng định công lao to lớn của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác, ngăn
chặn nước Mỹ và các nước tư bản chủ nghĩa lớn trong Liên minh Bắc Đại Tây Dương
phát động chiến tranh thế giới thứ ba.
Sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ
nghĩa tạo ra một cuộc đảo lộn toàn cầu theo hướng tích cực, tạo ra môi trường
thuận lợi cho các thế lực mưu toan thiết lập chế độ bá quyền toàn cầu của Mỹ.
May mắn thay, trên thế giới vẫn còn những thế lực có thể ngăn chặn hành động
của Mỹ và tiềm lực ấy hoàn toàn có thể thuần hoá các thế lực mưu toan thực hiện
nền thống trị đại bá quyền nếu chúng được tập hợp lại dưới ngọn cờ chống chủ
nghĩa bá quyền. Có thể thực hiện được trong thực tế không còn một liên minh đối
lập.
Thực tế ba thế kỷ vừa qua cung cấp
cho những người nghiên cứu lý luận về lịch sử tiến hoá của nhân loại mọi nguồn
cảm hứng hết sức quý báu và cũng nói lên rằng, sự sai lầm về lý luận là nguồn
gốc của nhiều tai hoa chết người.
Và các ngành khoa học về con người
rõ ràng loạc choạc hoặc gần như không có phương hướng hoặc công tác lý luận
được coi như một công cụ trang trí, chạy đua khoa bảng, danh dự và cả lợi ích
vật chất. Những nhà lý luận chủ nghĩa thì cũng chủ quan hêt sức, thả cửa phê
phán Chủ nghĩa Mác và các nước xã hội chủ nghĩa. Lớn tiếng hoan hô niềm tự do
hoàn thiện, chế độ tư bản chủ nghĩa hoàn thiện và vĩnh viễn tồn tại. Lịch sử
đang vận động gần như hối hả vì loài người đã đi vào một nền văn minh mới, nhịp
độ của nó có thể quá nhanh không chỉ con người nhận biết.
Làn sóng thứ ba chưa kịp hiểu, nhất
thể hoá, kinh tế trí thức đã đến.
Vấn đề lớn cần được lý giải là
nguyên nhân thành bại của chủ nghĩa Mác qua cuộc thử nghiệm trong thực tế cả
thế kỷ 20 và cả nửa sau thế kỷ thứ 19
Và cũng cần phải làm rõ vì sao chủ
nghĩa tư bản mang lại cho loài người nhiều tai hoạ như vậy mà nó vẫn tồn tại?
Có người nói, nó là chế độ hoàn thiện cuối cùng, có đúng là như vậy hay không?
và nó ở giai đoạn nào, cuối cùng hay là vẫn chưa phải ? Qua việc nhận định bản
chất diện mạo và chủ nghĩa xã hội thực tế là điều kiện để đi tới nhận thức khoa
học đúng đắn hơn về những qui luật vận động của lịch sử và thấy rõ thực chất.
Trước hết cần phải lý giải bản chất
hệ thống lý luận của Mác về cách mạng vô sản về lý luận và qua quá trình dựa
vào cuộc sống và phương hướng phát triển nó quâ trình loài người đi vào nền văn
minh mới.
Vấn đề bản chất chủ nghĩa Mác đã
được ông Angels trình bầy trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Điểm xuất phát và
là nền tảng là học thuyết đấu tranh giai cấp. Mục đích của cách mạng là thiết
lập chế độ công hữu.
Vô sản là giai cáp duy nhất không có
tư liệu sản xuất, không có đầu óc tư hữu mới là người chôn vùi chế độ tư hữu,
thiết lập chế độ công hữu xoá bỏ chế độ người bóc lột người, thực hiện một cuộc
sống : mọi người lao động theo năng lực của mình và được xã hội thoả mãn mọi
nhu cầu. Còn cuộc cách mạng của giai cấp vô sản, công hữu hoá tư liệu sản xuất,
tổ chức nền kinh tế có kế hoạch do nhà nước chỉ đạo, chủ nghĩa Mác này quá độ
nhấn mạnh phương pháp bạo lực. Tất cả các giai cấp có tư liệu sản xuất, riêng
tiểu nông, tư sản thành thị trí thức đều là những giai cấp tư hữu không thể
tham gia đội quân cách mạng. Đối với nông dân, Mác và Engels chủ trương hãy để
cho họ suy nghĩ trên mảnh đất nhỏ bé của mình và có thể tham khảo của Đức và
Nga, đưa họ vào tổ chức sản xuất theo phương thức công nghiệp.
Các nhà sáng lập học thuyết cộng sản
chủ nghĩa phán đoán và dự báo quá lạc quan về sự khủng hoảng tan rã của chủ
nghĩa tư sản, tình thế cách mạng đã đến, giai cấp vô sản ở mấy nước công nghiệp
được vũ trang học thuyết cộng sản chủ nghĩa đoàn kêt lại đánh đỏ chủ nghĩa tư
bản giải phóng mình, đồng thời giải phóng toàn nhân loại. Hai ông nêu lên khẩu
hiệu chiến lược: Giai cấp vô sản các nước, đoàn kết lại.
Ảnh hưởng của chủ nghĩa Marx, trực
tiếp là dự báo nói trên, trong không khí nổi dậy ở thành phố Paris nước Pháp, xuất
hiện bản nhạc Quốc tế, nhấn mạnh: “Đấu tranh này là trận cuối cùng, đoàn
kết lại để ngày mai, L’international, sẽ là xã hội tương lai..”. Bản
nhạc ấy đoàn kết lại để ngày mai vẫn được sử dụng trong phạm vi hẹp hơn.
Học thuyết cộng sản chủ nghĩa được
Marx và Engels trình bầy bắt đầu từ một tập bút ký viết chung năm 1824, bản
Tuyên ngôn Đảng Cộng sản và những công trình nghiên cứu chuyên đề là người cùng
soạn thảo công trình của từng người, trong đó có công trình lớn nhất là Bộ Tư
bản, Biện chứng phép tự nhiện, Chống During, Chủ nghĩa xã hội không tưởng
và Chủ nghĩa cộng sản khoa học.
Các công trình do hai ông viết trong
nửa thế kỷ được tập hợp trong toàn tập của hai ông. Gần như tất cả còn ở dạng
viết chưa xong. Tuy đã được trình bày có hệ thống có ba bộ phận: Triết học,
Kinh tế học, Chủ nghĩa xã hội, song thiếu một công trình khái quát về học
thuyết.
Chủ nghĩa Marx mở ra bước ngoặt lớn
trong lịch sử tư tưởng của loài người trong mấy nghìn năm từ hai trường phái tư
tưởng lớn. Duy vật và duy tâm, phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình
thành Chủ nghĩa Duy vật biện chứng, tổng kết các học thuyết cải tạo xã hội
không tưởng thành chủ nghĩa xã hội khoa học. Từ khoa kinh tế chính trị ban đầu
của Smith và Rocardo nâng lên thành một khoa học. Như vậy là từ gần ba nghìn
năm, liên tục loài người đi tìm con đường giải thoát từ nhiều phía khác nhau,
nhiều tông giáo và học thuyết thay đổi xã hội bất công và sau khi nâng lên
trình độ mới thành một học thuyết giải phóng xã hội, giải phóng con người, chấm
dứt giai đoạn bị tha hoá, đưa con người vào đúng vị trí chủ nhân. Là một khoa
học, lại mới trong hình thành nó đặt được nền móng song còn sơ sài, thiếu sót
và cả sai lầm mang theo đủ loại dấu vêt của các trường phái tư tưởng ra đời
trước nó giống như con người tách khỏi loài khỉ vẫn còn cái vết to tướng, chỗ
đuôi rụng. Đấy là những hiện tượng duy tâm chủ nghĩa, chủ quan duy ý chí, siêu
hình, không tưởng. Song, về nền tảng, nó là khoa học.
Tiếp cận lần đầu tiên với một công
trình khoa học khổng lồ, những con người uyên bác và tiêu biểu cho đạo đức, lối
sống, người ta choáng ngợp, coi như tất cả đã đợc lý giải như một pho kinh
thánh cách mạng. Không phải, Marx nói: ”Học thuyết của chúng tôi không
phải là một bộ kinh thánh tôn giáo chết cứng - mà chỉ là kim chỉ nam cho hành
động”.
Engels nói rõ hơn: “Học thuyết
của chúng tôi chỉ là khởi điểm của sự tìm tòi sau này và phương pháp của sự tìm
tòi ấy, chúng tôi thống kê sẵn những công thức bếp núc của tương lai”.
Ra đời ở mấy nước Tây Âu, sau khi
khoa học tự nhiên đã có ba phát kiến lớn, cuộc cách mạng công nghệ đang được
triển khai, hình thái kinh tế xã hội - tư bản chủ nghĩa còn đang ở giai đoạn
đầu, mặc dù tạo ra những mâu thuẫn xã hội gay gắt, nó đang xông tới, đẩy mạnh
quá trình cách mạng công nghiệp. Học thuyết Marx là sản phẩm của mấy nước như
nói ở trên giữa thế kỷ 19, đặt nó trong bối cảnh thế kỷ thứ 21 nếu không lạc
hậu thì không phải là khoa học. Chân lý bao giờ cũng là sản phẩm trong không
gian, thời gian nhất định. Không có chân lý vĩnh cửu, đó là chân lý vĩnh cửu.
Qua ngoại suy, có thể bình giá chủ
nghiã Mác là một sơ thảo của một học thuyết giải phóng xã hội, giải phóng con
người cởi trói và chắp cánh cho con người bay lên. Là một khoa học đích thực,
nó không thể làm hoàn thiện ngay từ lúc mới ra đời. Con người là sinh vật duy
nhất biết tìm tòi, không ngừng tìm tòi. Nền văn minh trí tuệ không xuất hiện từ
một khoảng không. Chủ nghĩa Mác giống như bốn phép tính đầu tiên của toán học,
nó sơ sài song là cái nền để tiến lên hình thành cuộc cách mạng lớn của toán
học và các ngành khoa học tự nhiên khác bùng nổ trong thế kỷ 20, nó là Thuyết
Nhật Tâm mà về triết học, vật lý học nói chung là sự phát triển tế bào trong
sinh học. Oxy và Nitơ trong hoá học.
Ba qui luật cơ bản của vật lý là hạt
nhân của khoa học vận động của vật chất lẫn tâm lý con người cũng thường xuyên
vận động và không nhắc lại một cách máy móc như Héraclite đã nói: “Người ta
không tắm hai lần trên cùng một dòng sông”. Trong phạm vi vi mô cũng như vĩ mô,
lịch sử nhân loại cũng vậy, phụ thuộc vào trình độ kỹ thuật sản xuất, phương
thức, hình thức kinh tế xã hội rất đa dạng, không thể tuỳ tiện dập khuôn. Như
vậy chủ nghĩa Marx là sản phẩm của lịch sử, nói cụ thể hơn là sản phẩm của nước
Anh, nước Pháp, nước Đức thế kỷ thứ 19. Ba nước ấy không phải là cả thế giơi.
Và thế giới không đứng ở chố đứng cách ngày nay 150 năm biến đổi đến chóng mặt.
Trong lịch sử đấu tranh giai cáp là
một động lực, nhưng không phải là cơ bản và thường xuyên. Kỹ thuật sản xuất làm
thay đổi thế giới và cuộc sống của con người. Và cùng nhiều động lực khác. Nói
lịch sử loài người là lịch sử đấu tranh giai cấp là có vấn đề rồi tuy rằng nó
vẫn tồn tại trong xã hội có giai cấp. Đơn điệu hoá, cường điệu hoá đấu tranh
giai cấp, tât cả đều nhìn qua lăng kính giai cấp không thể tránh khỏi sai lầm như
: phân tích lịch sử trên văn hoá, nghệ thuật, trên lập trường giai cấp dẫn đến
méo mó nguy hiểm đả kích tất cả, tháo bỏ tất cả những gì mà giai cấp vô sản
không ưa. (Sự thật là lời nói một số người nhân danh giai cấp vô sản).
Trong hệ thống lý luận của Marx và
Engels có nhiều yếu tố tả khuynh đẩy nó đến chỗ trở thành một học thuyết đã thể
hiện ở quan niệm giai cấp cực đoan. Không phù hợp với cuộc sống thực tế ở nhận
định lạc quan một chiều, sự khủng hoảng tan rã của chủ nghĩa tư bản, tình thế
cách mạng đã chín mùi đối với toàn thế giới và khi đã giành được quyền lực rồi
có thể tiến thẳng vào xã hội cộng sản chủ nghĩa. Sự lạc quan đã dẫn tới chủ
nghĩa tả khuynh, về đường lối, phương pháp cách mạng, cho rằng hễ có giai cấp
vô sản ở mấy nước là đã đánh đổ các lực lượng thống trị hiện tồn. Không cần tập
hợp những lực lượng xã hội rộng lớn khác, trong đó có giới trí thức bị coi là
bọn thông thái rởm, - giai cấp tiểu tư sản thành thị đều là trung gian, ngả
nghiêng, hậu bị của chủ nghĩa tư bản và đều hướng tới chủ nghĩa tư bản. Và tệ
hại hơn nữa là muốn đồng thời với cách mạng chính trị, xã hội xoá bỏ luôn một
lúc mọi hình thái tín ngưỡng.
Nhận định sự lặp lại của mọi hình
thái kinh tế xã hội đều giống nhau: sức sản xuất phát triển đến hẹn thì phá vỡ
quan hệ sản xuất không còn phù hợp nữa như mầm cây luá trong hạt thóc, con gà
trong vỏ quả trứng gà, và tất cả đều phải bằng bạo lực. Chủ nghĩa áy phá hoại
nền tảng và uy tín khoa học của học thuyết và dẫn đến những cuộc phiêu lưu đẫm
máu sau này.
Về những quan niệm sai lầm nói trên
mà những người mác xít và cả Marx và Engels nữa, đấu tranh không khoan nhượng
những người đi theo con đường tiến hoá. Sự thật thì ở các nước công nghiệp hoá
cho đến ngày nay quần chúng lao động vẫn kiên trì đi theo con đường cải lương
để bảo vệ quyền lợi của mình, họ biêt rõ tình hình cho phép thay đổi cơ bản xã
hội tư bản chủ nghĩa và cuộc sống ở các nước tư bản chủ nghĩa, mà đáng buồn là
sự hấp dẫn ngược lại. Công dân các nước xã hội chủ nghĩa lần lượt và lén lút
chạy sang các nước tư bản chủ nghĩa. Bạo lực cách mạng, chuyên chính vô sản,
thiếu thốn đủ thứ, xã hội khép kín, làm cho người ta run sợ, lảng tránh.
Giai cấp tư bản là giai cấp bóc lột,
bóc lột ngày càng nhiều, phải thường xuyên đối đầu với nhưng người lao động và
biết vươn tới qua cuộc cạnh tranh thường xuyên ác liệt trong giai cấp, loại trừ
lẫn nhau vẫn tồn tại được vì biết thường xuyên hoàn thiện kỹ thuật, cải cách
kinh tế, thay đổi chính sách nhằm tránh khỏi nguy cơ đụng đầu xã hội, biết
tranh thủ lòng người bằng thứ dân chủ hào nhoáng bảo đảm lợi ích của họ, biết
là bịp mà vẫn thích.
Là loại học thuyết giải phóng xã
hội, giải phóng con người phải là sự nghiệp toàn nhân loại, tại sao lại biến
thành của riêng của giai cấp vô sản, anh dũng nhưng nhỏ bé và vì phải lao động
cật lực mới đủ sống, còn đâu thì giờ và tiền của để trở thành phần tử của lớp
người tinh hoa. Marx đã viết học thuyết cộng sản chủ nghĩa không xuất hiện từ
phong trào công nhân vì những ngươì lao động không thề vươn tới trình độ đó,
giỏi nhất chỉ có thể đạt tới chủ nghĩa công đoàn. Học thuyêt này là công trình
của trí tuệ. Nói rằng, giai cấp duy nhất tán thành chế độ công hữu không ích kỷ
cá nhân, song Mác lại gán cho giai cấp vô sản nước Anh, nơi xuất hiện giai cấp
vô sản sớm nhât, danh hiệu quý tộc hoá. Ông cũng nói: cuộc cách mạng vô sản
giải phóng mọi người không phân biệt chủng tộc, giới tính. Logic của vấn đề này
phải là: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, quần chung làm nên lịch sử,
những người tiên phong phát hiện quy luật tiến hoá nhân loại, phải tự mình tổ
chức lại rồi tập hợp tất cả mọi người tán thành cải tạo chế độ hiện tồn, xây
dựng mới nền kinh tế của nhân dân, nền chính trị của nhân dân.
Qua con đường thích hợp với hoàn
cảnh của mỗi dân tộc, mỗi thời đai, không gò ép vào một công thức, cách mạng tiến
hành ở từng dân tộc không có một trung tâm chỉ đạo và một công thức chung, cách
mạng là một quá trình lịch sử không thể thúc đẩy những cuộc đột biến không đủ
điều kiện.
Cống hiến của Marx và Engels đối với
lịch sử là to lớn. Từ tuổi thanh niên hai ông đã lấy việc phục vụ nhân loại là
hạnh phúc của mình, chấp nhận mọi hy sinh, cả đời dốc sức vào việc tìm tòi con
đường giải phóng nhân loại.
Có lẽ vì hoàn cảnh, những người lưu
vong suốt đời, hai nhà sáng lập học thuyết Mác buộc phải sử dụng một phương
pháp phi khoa học để tìm tòi khoa học.
Tự mình soạn thảo, nghiên cứu, tìm
tòi cá nhân, cao nhất là sự trao đổi thân ái giữa hai người trực tiếp và gián
tiếp và bổ sung, sửa chữa cho nhau. Làm luận án tiến sĩ thì đúng. Tìm tòi một
con đường giải phóng nhân loại phải là sự nghiệp khoa học của nhiều cái đầu lớn
nhỏ. Tranh luận phê phán và sự phê phán là phương pháp khoa học. Ơ đây, hai ông
riêng rẽ soạn thảo và không hoan nghênh mọi sự phê phán, phản biện mà giành cho
mình quyền phê phán trước mọi quan điểm khác với quan điểm của mình. Đó là điều
tối kị đối với công tác khoa học. Socrate xứng đáng được tôn kính, tuy nhiên
chân lý quan trọng hơn: sự cọ xát mới ra chân lý. Không qua tranh luận, phê
phán, chân lý không sáng tỏ phương pháp của các nhà khoa học tự nhiên cần được
các nhà lý luận, khoa học xã hội và nhân văn tham khảo.
Phần thứ hai
Chủ Nghĩa Mác Vào Cuộc
Sau khi chuyển Liên minh những người
chính nghĩa thành Đảng Cộng sản và công bố Tuyên ngôn của Đảng, hai nhà sáng
lập và được bầu làm người đứng đầu, Mác và Engels đi thẳng vào cao trào quần
chúng cách mạng đang diễn ra sôi nổi ở nước Pháp, nước Đức và mấy nước Tây Âu
khác, hướng phong trào công nhân, phong trào dân chủ tư sản sang dân chủ vô
sản. Cuộc đấu tránh của quần chúng mạnh mẽ chưa từng thấy, cả chính trị và vũ
trang suốt hai năm (1827-1828). Các thế lực cầm quyền phản kích dữ dội. Hai ông
bị toà án nước Đức và trục xuât khỏi nước Đức.
Lúc đầu Marx ở Luân Đôn, Engels ở
Manchester làm thuê để sống và giúp gia đình bạn. Hai ông đều tiếp tục viết,
nghiên cứu và lãnh đạo phong trào cách mạng quốc tế. Marx bắt đầu viết công
trình đồ sộ suốt đời từ khi phải sống cuộc đời lưu vong đến khi qua đời vẫn
chưa xong bộ Tư bản. Ông ngã gục, từ dã cõi đời năm 1883. Năm 1863, Liên hiệp
những người lao động quốc tế, thường gọi là Quốc tế thứ nhất, ra đời giai cấp
công nhân, nhiều nước châu Âu lần đầu tiên có tổ chức xuyên quốc gia. Phong
trào công nhân đựơc khôi phục và phát triển hơn trước ở cả Tây Âu và Bắc Mỹ.
Paris tiêu biểu của phong trào cách mạng từ thế kỷ thứ 18, thế kỷ ánh sáng,
cuộc nổi dậy mãnh liệt năm 1789, dưới ảnh hưởng của Voltaire, Rousseau,
Montesquieu. Cao trào những năm 1860-1870 dẫn đến cuộc nổi dậy lần thứ hai dưới
ảnh hưởng mà nhiều khuynh hướng chính trị, xã hội khác nhau trong đó có chủ
nghĩa Mác. Cuộc đối đầu giai cấp diễn ra cực kỳ ác liệt, những người lao động
tổ chức cuộc đấu tranh vũ trang bằng đội quân của họ và lập công xã để tự quản
lý. Cuộc nổi dậy ở Paris và công xã Paris được bảo vệ chặt chẽ, anh dũng đương
đầu với cuộc phản kích quân sự dữ dội của quân đội và cảnh sát. Không mở rộng
được ra ngoài thành phố. Nhà cầm quyền Pháp, thoả hiệp với nhà cầm quyền Đức
chấm dứt chiến tranh giữa hai nươc, liên minh với nhau chống công xã.
Cuộc khởi nghĩa Paris thất bại sau
hơn 2 tháng. Mấy trăm nghìn chiến sĩ hy sinh và bị đi đầy ở các đảo xa.
Mác biểu dương nhân dân Paris xung
phong tận trời xanh và cho rằng một chính quyền cách mạng sẽ tìm thấy. Nhân dân
số đông là công nhân lập ra chính quyền và quân đội của mình, thi hành chính
sách công chức không phân biệt cấp bậc chỉ trả lương bằng công nhân trung bình,
giáo dục, y tế do công xã lo liệu cho mọi người. Hình mẫu này lại tăng thêm
chất tả của lý luận.
Sau cuộc thất bại của cuộc nổi dậy
này Liên hiệp những người lao động. (câu này không rõ nghĩa). Ông ta (?) phản
đối sự lãnh đạo phong trào cách mạng để quần chúng chủ động tổ chức và tự chỉ
huy và từ bỏ ban chỉ đạo của Quốc tế. Nó tự tan rã, tự tuyên bố hoàn thành sứ
mạng lịch sử chỉ là sự hợp pháp hoá. Một thoái trào kéo dài cho đến mãi những
năm 1880, sau khi Marx đã qua đời.
Ngay dồ rTốhai ông sáng lập: cách
mạng bao lực, chuyên chính vô sản. Sau thất bại của Paris, Marx đề xuất lý luận
về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản với hai giai đoạn xã hội chủ nghĩa và
cộng sản chủ nghĩa, là chưa phải, là chủ nghĩa cộng sản cũng không là chủ nghĩa
tư bản. Vấn đề rất khó hiểu và không thực hiện sau này ở các nước dân chủ nhân
dân. Mao thì sáng tạo một nền chuyên chính 4 giai cấp, khi giành được chính
quyền, ông bác bỏ luôn cùng với nền kinh tế ”Tứ diện bát phương”, đi thẳng vào
nền kinh tế công hữu hoá kế hoạch hoá kiểu Liên Xô, không bao lâu, lại thiết
lập công xã nhân dân.
Ai không theo con đường bạo lực mà
chủ trương đấu tranh hợp pháp dưới chủ nghĩa tư bản, hạn chế sự bóc lột của nó,
giành quyền dân chủ bị phê phán là cơ hội chủ nghĩa, coi là thù địch với cách
mạng cho nên đòn tiến công chính phải nhằm vào các lực lượng trung gian tiểu tư
sản. Sau này Liên Xô coi là một trong sáu bài học trong lịch sử Đảng Cộng sản
Liên Xô. Như vậy là lý luận của Marx và sau này được thể hiện trong thực tiễn
là quyết liệt chống giai cấp tiểu tư sản cả thành thị lẫn nông thôn, coi giai
cấp này là đồng minh tự nhiên của giai cấp tư sản. Nội bộ phong trào cộng sản
các nước và quốc tế trong thời gian 170 năm bị chia rẽ về vấn đề này.
Trên thực tế thuyết bạo lực cách
mạng chuyên chính vô sản, xông tới lật đổ chủ nghĩa tư bản không được ủng hộ
rộng rãi, con đường hoà bình, dân chủ vẫn được ủng hộ rộng rãi hơn
Năm 1895, trước khi qua đời, Engels
thừa nhận rằng dự báo về một cuộc cách mạng nổ ra ở trung tâm của chủ nghĩa tư
bản đã không được chứng minh, nghĩa là nó chỉ là một niềm hy vọng.
Vì sao cách mạng lại nổ ra và thắng
lợi ở nước Nga dẫn đến sự ra đời của Liên bang Xô Viết. Bất kỳ sự thay đổi
chính quyền nào cũng đều đo sự suy yếu của chính quyền đang tồn tại và thế lực
đối lập mạnh hơn, lại nắm được thời cơ, hành động đúng. Là một đế chế mạnh ở
châu Âu đã từng nhiều phen tranh chấp bằng quân sự chống các thế lực phong
kiến, tư bản khác nổi bật là đánh thắng đội quân lớn mạnh nhất đầu thế kỷ 19
của Napoléon Bonaparte. Liên minh với Anh và Pháp chống Đức, Ao, Hung trong
cuộc chiến tranh đế quốc chủ nghĩa châu Âu thường gọi là chiến tranh thế giới
thứ nhất, nước Nga bị kiệt quệ, công nghiệp, nông nghiệp đình đốn, nhân dân nổi
dậy đòi hoà bình và bánh mì, chống chiến tranh, đội quân khổng lồ 5 triệu binh
sĩ tan rã, đảo ngũ hàng loạt, một bộ phận nhập đội ngũ cách mạng của nhân dân,
trước hết vì không sông nổi và chiến đấu tuyệt vọng với quân Đức, Ao, Hung.
Tình thế cách mạng xuất hiện. Khi cuộc chiến tranh là giữa hai thế lực đế quốc
chủ nghĩa bắt đầu nhằm chia lại các nước tham chiến, biến chiến tranh đế quốc
thành nội chiến cách mạng mà yêu cầu các đảng công nhân chống lại cuộc chiến
tranh ấy. Lời kêu gọi ấy chỉ được hưởng ứng ở nước Nga.
Đảng công nhân xã hội dân chủ Nga
khi ra đời chủ trương làm cuộc cách mạng tư sản dân chủ. Vì Đảng này bị chia rẽ
thành hai đảng đa số và thiểu số và không thực hiên liên minh với các đảng
chống chế độ phong kiến, lực lượng không đủ mạnh, cuộc nổi dậy tháng Hai năm
1917, đảng của Lênin ở thế yếu, các đảng khác nắm được cơ hội lãnh đạo cuộc nổi
dậy đánh đổ triều đình Nga, thiết lập chế độ nghị viện, chống đảng công nhân xã
hội dân chủ có khuynh hướng tư sản. Lênin kêu gọi chuyển sang cách mạng vô sản
nhằm nắm quyền lãnh đạo, tập hợp lực lượng giữa nước Nga và các nước thuộc địa
của nước Nga vào con đường xã hội chủ nghiã, thực hiện những nhiệm vụ của cách
mạng vô sản như đã vạch ra trong Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, thiêt lập nền chuyên
chính vô sản, bãi bỏ kinh tế tư bản chủ nghĩa, tiến hành cách mạng ruộng đất
thi hành chính sách phân phối cộng sản chủ nghĩa kết hợp với chính sách thời
chiến, tịch thu lương thực thừa, phân phối theo khẩu phần. Nền kinh tế gần như
sụp đổ từ 1917 đến 1920. Cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội và cả chính trị bùng
nổ. Nhạy bén về chính trị và lý luận, Lênin nhận định rẳng, tiến thẳng vào chủ
nghĩa cộng sản ở nước Nga là nước tiểu nông mênh mông như biển cả là điên rồ,
lúc đó nước Nga đứng trước các vực thẳm giữa một bờ là những nhiệm vụ mênh
mông, bên ka là sự bần cùng thảm hại về vật chất và văn hoá. Nhiệm vụ trọng tâm
của nhà nước cách mạng là san bằng các hố đó. Ông điều chỉnh lại nhận thực về
con đưòng mới đưa nước Nga lên chủ nghĩa cộng sản. Quan điểm ban đầu của ông về
cách mạng thế giới rất lạc quan, cho rằng chủ nghĩa tư bản quốc tế đã phát
triển đến giai đoạn cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Sau thắng lợi của Cách
mạng Tháng 10, ông chờ đợi sự bùng nổ cách mạng Tây Âu và cách mạng dân chủ
phương Đông. Chờ mà chẳng đến. Ông đề xuất quan niệm xây dựng xã hội cộng sản
bên cạnh xã hội tư bản chủ nghĩa. Nhà nước tiến lên chủ nghĩa cộng sản, xây
dựng nền kinh tế mở cửa, kêu gọi đầu tư của chủ nghĩa tư bản và thi hành chính
sách tô nhượng, khuyến khích kinh tế thị trường.
Quan niệm này phù hợp với qui luật
kinh tế xã hội. Chẳng may bị ám sát hụt năm 1918, viên đạn nằm sâu trong bả vai
không gắp ra được, sức khoẻ của ông giảm sút rồi qua đời sau năm 1924.
Do tư tưởng chính trị cho rằng chỉ
có giai cấp vô sản mới làm được cách mạng và bạo lực là con đường không thể
tách được, Đảng của Lênin cũng thi hành chính sách tả khuynh và đấu tranh ác
liệt giữa cách mạng và cải lương mà đội ngũ bị thu hẹp, không thu hút được nhân
tài. Những người lãnh đạo nhà nước Xô Viết có tài năng rất hiếm, kể cả những
người đứng đầu đảng thiểu số như Trótky, Kamênép, Zinoviep và các sĩ quan cũ.
Nhiều cán bộ chưa biết chữ, Lênin chủ trương dùng chuyên gia tư sản và nói thật
rằng chúng tôi sẵn sàng đổi 100 người bolchevich kém cỏi lấy một chuyên gia tư
sản. Ông thấy rõ rằng không thể xây dựng một xã hội mới bằng con người không có
học. Xuất khẩu được một lô hàng thu được mấy triệu bảng Anh. Ông quyết định
dùng số tiền để mua bút chì chống nạn mù chữ. Văn hoá là một yếu tố quan trọng
của sự phát triển.
Sau khi Lênin qua đời, cuộc tranh
chấp quyền lực nổ ra nguy hiểm mà ông cảm thấy từ trước. Nắm quyền lãnh đạo,
Stalin gạt bỏ gần hêt lớp cận vệ già trong đó có: Trótky, Kamênép, Zinoviep,
Bukharin. Người ta nói rằng Kirôp chết đột ngột do Stalin gạt bỏ một đối thủ lợi
hại. Là một nhân vật không đủ tầm cỡ đứng đầu một Nhà Nước kiểu mới xưa nay
chưa từng có, Stalin trở lại con đường ban đầu của chủ nghĩa cộng sản gọi là
thời chiến, bác bỏ chính sách kinh tế mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, tập trung
toàn bộ vốn liếng cho công nghiệp nặng, mở chiến dịch tập thể hoá nông nghiệp,
xoá bỏ mọi hình thức tư liệu. Vấp phải sự chống cự ở trong Đảng và của nông
dân, một cuộc thanh trừng nội bộ và thủ tiêu phú nông. Hàng triệu sinh mệnh bị
thủ tiêu không thương tiếc. Năm 1936. Stalin tuyên bố đã xây dựng xong chủ
nghĩa xã hội, đất nước đi vào xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa cộng sản.
Đầu thế kỷ thứ 20, cuộc khủng hoảng
kinh tế, khủng hoảng thị trường dẫn đến cuộc chiến tranh bốn năm (1-8-1914 -
11-11-1918) giữa hai tập đoàn đế quốc Anh, Pháp, Nga và Đức, Ao, Hung. Sau cuộc
chiến tranh ấy nền kinh tế tư bản chủ nghĩa thế giới lâm vào cuộc tổng khủng
hoảng, bắt đầu từ nước Mỹ rồi mở rộng ra toàn thế giới, kéo dài bốn năm. Để
khắc phục cuộc khủng hoảng gay gắt đó, tổng thống nước Mỹ, Fr. Roosevelt thi
hành chính sách mới, cuộc khủng hoảng từng bước được khắc phục. Nước Đức cho
rằng mình bị thiệt thòi trong việc chia lại thị trường thế giới tại Hội nghi
hoà binh Versailles chuẩn bị chia lại lần nữa. Do sự chia rẽ giữa Đảng Cộng sản
và Đảng Xã hội dân chủ chiếm đa số trở thành đảng thiểu số so với Đảng Quốc gia
xã hội do Adolphe Hitler đại biểu của giai cấp đại tư sản. Lên cầm quyền, đảng
này tập trung mọi quyền lực vào việc chuẩn bị một cuộc chiến tranh thế giới mới
với một đội quân khổng lồ là 5 triệu người và mấy trăm sư đoàn bộ binh, pháo
binh, thiết giáp, không quân. Phối hợp với các lực lượng phát xít Italia và
quân phiệt Nhật bản, bọn phát xít Đức lập ra trục phát xít và tuyên bố chiến
tranh, Stalin tuyên bố xoá bỏ Hiệp định Versailles.
Trong thời gian đó, Stalin tuyên bố
bãi bỏ chính sách kinh tế mới, thực hiện kế hoạch năm năm lần thứ nhất đẩy mạnh
công nghiệp hoá đất nước đi liền với chiến dịch ba năm tập thể hoá đất nước,
toàn bộ nền nông nghiệp mênh mông mà các nước trong Liên bang Xô viết vấp phải
sự chống đối trong đảng và trong xã hội, Stalin phát động cuộc tấn công quyết
liệt chống các thế lực chống đối nói là để làm trong sạch đảng, xoá bỏ triệt để
các giai cấp bóc lột trong đó có tầng lớp nông dân giàu được nâng lên thành một
giai cấp. Sự đảo lộn và tổn thất trong đảng và trong xã hội cực kỳ to lớn, bộ
phận đảng viên hoạt động từ năm 1903 đến 1917, chỉ đạo và là nòng cốt cuộc khởi
nghĩa tháng Mười bị thủ tiêu tàn bạo.
Gần 90.000 sĩ quan các cấp kể từ
nguyên soái trở xuống bị nghi là gián điệp của Đức, bị loại bỏ.
Nền kinh tế suy yếu và đảo lộn. Quân
đội và nhân dân không sẵn sàng đương đầu với một cuộc chiến tranh xâm lược to
lớn chưa từng thấy trong lịch sử.
Tại Đại hội lần thứ VII Quốc tê Cộng
sản tháng 9 năm 1939, nghị quyêt của Đại hội lần thứ VII bị phê phán là tả
khuynh, một nghị quyết mới chủ trương các Đảng Cộng sản liên minh với các Đảng
Xã hội chủ nghĩa, xã hội dân chủ và các lực lượng tiến bộ khác lập thành Mặt
trận dân chủ chống chủ nghĩa phát xít và chiến tranh.
Nhằm tránh một cuộc chiến tranh với
nước Đức phát xít trong tình hình đất nước và các lực lượng vũ trang chưa sẵn
sàng, Liên Xô phải ký hiệp ước không xâm lược lẫn nhau đồng thời thực hiện một
cuộc phản kích đối với Mỹ, Anh, Pháp cự tuyệt để nghị cuả Liên Xô thành lập một
liên minh chống phát xít. Chủ trương của các nước này là ký hiệp định với Đức,
hiệp định Muy-nich đẩy các nước phát xít phát động chiến tranh chống Liên Xô.
Tháng 9 năm 1939, Đức tiến công Ba
Lan và Tiệp Khắc, tháng 5 năm 1940, tiến công và xâm lược nước Pháp. Bị đánh
bất ngờ không qua tuyến phòng thủ quan trọng nhât là Maginot, nước Pháp bị đánh
bại trong một thời gian chớp nhoáng, phương châm chỉ đạo chiến tranh của Đức do
có lực lượng quân sự mạnh hơn tất cả các nước khác lúc bấy giờ. Đối với nước
Anh hồi đó, Hitler tiến hành chiến tranh phá hoại bằng không quân.
Mussolini tiến công nhiều nước dân
chủ. Đưa ra thuyết khối thịnh vượng chung Đại Bảo A, thực chất là thiết lập
không gian sinh tồn của mình, Nhật phát động cuộc chiến tranh chống Trung Quốc,
bắt đầu từ Mãn Châu năm 1931, mở rộng ra Bắc Kinh năm 1937, phối hợp nhịp nhàng
với Đức và Italia, phát động chiến tranh ra toàn khu vực châu A, Thái Bình
Dương. Trong khi đó, Mỹ, Anh, Pháp thi hành chính sách quen thuộc lâu đời ở
Trung Hoa “toạ sơn quan hổ đấu”, tuyên bố lập liên minh dân chủ với Liên Xô,
chống Đức, Italia, Nhật Bản nhưng chỉ chờ các nước trục phát xít, tiến công và
làm suy yếu Liên Xô rồi hành động loại trừ cả hai, chiếm cả thế giới để chia
nhau. Chính trị quốc tế là như vậy đó.
Tháng 6 năm 1941, sau khi chiếm phần
lớn các nước Tây Âu, Đông Âu, Đức chuyển trọng tâm chiến tranh sang Liên Xô
bằng phần lớn lực lượng lục quân, cơ giới, pháo binh, không quân. Gần như bị
tiến công bất ngờ, phòng thủ phía tây bị chọc thủng, quân phát xít tiến chớp
nhoáng sang phía đông Liên Xo hình thành hình thái quân Đức lập một phòng tuyến
Bắc-Nam Lêningrat-Mockba và xuống xa hơn. Quân đội Xô viết chống đỡ yếu ớt và
bị những tổn thất nặng nề. Nhờ tinh thần anh dũng của nhân dân và các chiến sĩ
các lực lượng vũ trang, giữ được Leningrad - Mockba. Quân đội Đức phải chịu cái
rét ghê gớm mùa đông năm ấy. Sang màa Xuân chúng mở rộng chiến tranh vẫn với
chiến thuật chiến tranh chớp nhoáng xuống phía Nam, chiếm Kharkov, Kuôcxe,
Stalingrad, Kiev, quân đội Liên xô chiến đấu anh dũng, sau những trận chiến đấu
từ hai thành phố lớn lúc đầu. Hàng chục nguyên soái và tướng lĩnh xuất hiện.
Cuộc chiến đấu được tiến hành dưới khẩu hiệu bảo vệ Tổ quốc Xô viết. Quần chúng
đông đảo tham gia cuộc chiến đấu. Hậu phương chiến tranh vững vàng. Tinh thần
cách mạng Nga được cao độ phát huy. Trận chiến đấu thắng lợi, trên mặt trận
Stalingrad Đông-Xuân 1942 (?)mở ra bước ngoặt lớn, quân đội Liên Xô từ phòng
thủ chiến lược chuyển sang tiến công chiến lược, đánh quặt về phía Tây, lần
lượt đẩy quân Đức về phía chúng xuất phát, giải phóng lãnh thổ phía Tây,
Mockba, Leningrad, đuổi quân Đức ở Tiệp Khắc, Hungari, Bungari, Rumani và cuối
cùng đến phía Đông nước Đức và Berlin. Quân đội Mỹ, Anh chờ đợi, kéo dài việc
mở mặt trận thứ hai đánh vào phía Tây, giảm bớt gánh nặng cho Liên Xô. Mỹ, Anh
hứa hẹn ở Hội nghị Teheran giữa Roosevelt, Churchill, Stalin, nhưng chỉ đến đầu
tháng 4 năm 1944, mặt trận thứ hai mới được mở. Quân đội Mỹ, Anh đổ bộ vào
Normandie nước Pháp, chạy đua với quân đội Liên Xô đánh chiếm đất và chiến lợi
phẩm khác. Tháng 5 nước Đức phát xít đầu hàng. Ba nước tư bản chiếm phía Tây,
quân đội Liên xô chiếm phía Đông nước Đức, hình thành các thế đối đầu giữa 3
nước tư bản, một nước xã hội chủ nghĩa 1919 đến năm 1990. Cuộc chiến tranh lạnh
bắt đầu từ cuộc gặp Truman, Churchill tháng 6-1946. Ơ đây có thể bàn về khả
năng sự cam kết giữa Mỹ, Anh, Pháp, Liên Xô, hợp tác xây dựng nền hoà bình thế
giới. Việc đó không thành là lỗi ở cả hai bên, bên nào cũng muốn làm chủ không
thoả hiệp.
Lấy nguồn cảm hứng từ chủ nghĩa Mác
Lênin đã giải quyết và hình thành hệ thống lý luận về cách mạng của nước Nga
rất khác các nước Anh, Pháp, Dức về chính trị, kinh tế, xã hội, chủ nghĩa
chuyên chế phong kiến Âu, A ở nước Nga rất đậm nét, như ở Đức (Prusse) Pháp và
Anh, song cũng giống và không giống ba nước nói trên và cả Trung quốc hoàn toàn
A với nền chuyên chiính Tần - Hán. Sau khi Lênin qua đời năm 1924, Stalin nêu
hệ thống lý luận mà Stalin là biểu tượng quốc tế không phải chỉ là hiện tượng
Nga và khẳng định rằng nó là đỉnh cao của chủ nghĩa Mác. Bài nói của Stalin:
“Những nguyên lý chủ nghĩa Lênin”, viết theo lăng kính của ông ta và nhằm xác
định vai trò lý luận của ông và có lẽ ông cho rằng là người đứng đầu nhà nước
vô sản đẩu tiên và đồng thời là người đứng đầu phong trào cộng sản quốc tế, chỉ
ông mới có thẩm quyền giải thích chủ nghiá Mác, chủ nghĩa Lênin, giống như chỉ
riêng thánh Phao-lồ, người giữ nhà thờ Jesu Kito mới có thẩm quyền giải thích
kinh thánh. Chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Lênin, ông chỉ nói - mình chỉ là một người
mac-xit, chủ nghĩa Lênin là do Stalin phong.
Bài giải thích gốc của Stalin được
truyền bá là sách gối đầu giường hoặc kinh thánh của những người cộng sản.
Trong 3 người đứng đầu Liên Xô tự phong là nhân vật kinh điển số 2 đứng đầu
phong trào cộng sản quốc tế, trước tác của ông cũng nhiều (không nhất thiết tất
cả đều do ông viết), đều được coi là kinh diển vì cuốn sách mang tên ông đều có
in ảnh bốn người ngang nhau. Ông ký tên nhiều sách. Phần lớn là văn kiện (các
báo cáo chính trị). Những trước tác chủ yếu của ông là những bài nói chuyện nói
trên, những bài chống các loại gọi là chủ nghĩa cơ hội, Giản sử lịch sử Đảng
Cộng sản Liên Xô. Những sách này thuộc loại mọi người phải đọc, và nói trái là
chống Đảng. Người ta cũng gọi chủ nghĩa Stalin không phải là quá đáng vì có chủ
nghĩa Tôn Văn, chủ nghĩa Gandhi và nhiều chủ nghĩa khác. Stalin viết và nói,
nhất là để đứng đầu một Đảng Cộng sản nhiều năm nhất, 1903-1990, và một Nhà
nước có lãnh thổ bằng 1/6 diện tích quả đất từ năm 1923 - 1993.
Điều cần nhận định là qua lý luận và
hành động, Stalin đã trình bày trước nhân loại một học thuyết tả cực đoan và
hành động thì tàn bạo, độc ác. Ông là một nhà độc tài thô bạo. Trong những bài
nói, bài viết của mình, Stalin đã đưa ra nhiều luận điểm quá tả như: giới thiệu
Lênin chỉ nói những vấn đề thuộc về chiến lược, sách lược nhấn mạnh những cái
tả. Ba cương lĩnh cách mạng được khởi thảo dưới sự chỉ đạo của ông đủ tiêu biểu
cho chủ nghĩa tả khuynh về mặt lý thuyết. Bãi bỏ chính sách kinh tế mới của
Lênin, tập trung vào sự nghiệp công nghiệp hoá, ưu tiên xây dựng những cơ sở
công nghiệp nặng, xoá bỏ toàn bộ các hình thức sở hưũ, kế hoạh tập trung nền
kinh tế chủ nghĩa còn là sản xuất, xoá bỏ triệt để thương nghiệp và dịch vụ.
Cuộc đấu tranh chống hiện tượng mà ông gọi là tả khuynh thật là khốc liệt, xoá
bỏ tầng lớp phú nông, tập thể hoá là xoá bỏ cả tiểu nông và toàn bộ giai cấp
nông dân, nông trường viên và xã viên nông trang là người lao động nông nghiệp.
Chính sách tiền lương và phân phối đến toàn xã hội và viên chức của Nhà nước Xô
viết cực kỳ sai lầm vì nó triệt tiêu động lực sáng tạo của người lao động, do
đó mà năng suất lao động lúc cao cũng chỉ băng 1/3 của lao động các nước tư
bản. Ăn ít cũng không thể làm nhiều.
Stalin nhận định, quá trình đi lên
chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới bắt đầu là thắng lợi của cách mạng tháng
10, là quá trình chuyển đổi từ sự bao vây chủ nghĩa tư bản đối với chủ nghĩa xã
hội thành quá trình ngược lại. Nền chuyên chính vô sản càng ngày càng phải
quyết liệt hơn vì sự phản ứng của các giai cấp bị đánh đổ đến gần sự thắng lợi
của chủ nghĩa xã hội cũng giãy giụa, điên cuồng, thất vọng. Chuyên chính vô sản
chẳng những phải tiêu diệt các giai cấp tư sản mà còn phải tiêu diệt những mầm
mống của nó trong xã hội, nền sản xuất hàng ngày, hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư
bản (luận điểm này của Lênin được nhấn mạnh và quán triệt trong hành động).
Những kết luận nêu trong giản sử lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô cũng là tiêu
biểu của chủ nghĩa tả về công tác lý luận tổ chức đảng, chống khuynh hướng tiểu
tư sản. Nêu cao tác dụng phê bình và tự phê bình nhưng không bao giờ phê bình
mà phản kích ác liệt những người phê bình cơ quan lãnh đạo. Liên hệ với quần
chúng chỉ là điều nói suông (càng ngày càng xa cách trong thực tế). Sau chiến
tranh, nền kinh tế của Liên Xô dược khôi phục về đại thể, sau một kế hoạch 5
năm.
Trước khi qua đời, tại Đại hội lần
thứ 19, tháng 1 năm 1953, tức là cách Đại hội lần thứ 18 họp năm 1938, 15 năm,
trong lời bế mạc, Stalin kêu gọi các Đảng cộng sản giương cao ngọn cờ dân tộc,
dân chủ mà tiến lên. Lời nói lúc sắp mất của một người thường tỉnh táo. Một
cuộc tranh chấp quyền lực lập tức xuất hiện.
Khrouchev bắn chết trùm mật vụ Béria
ngay tại phòng họp của Bộ Chính trị ở điện Kremlin. Tiếp đó là việc cách chức Malenkov,
người được Stalin chọn làm nhân vật số hai thay Zdanov chết đột ngột.
Nắm quyền lãnh đạo cao nhất,
Khrouchev chuẩn bị triệu tập Đại hội lần thứ 20 để tố cáo tội ác của Stalin,
nêu lên phương hướng một cuộc cải cách lớn. Ông đưa ra thuyết Đảng của toàn
dân, Nhà nước của toàn dân bảo vệ hoà bình, cùng tồn tại hoà bình với chủ nghĩa
tư bản, quá độ hoà bình từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Về lý thuyết
có thể chấp nhận. Song, trên thực tế Khrouchev phê phán sự sùng bái cá nhân
Stalin sang tự sùng bái ông. Vừa nói cùng tồn tại hoà bình vừa khiêu khích chủ
nghĩa đế quốc (đưa tên lửa sang Cuba). Ông hứa thi hành một cuộc cải cách kinh
tế theo tinh thần tự do hoá kiểu Liborman, trên thực tế, thực hành cuộc khai
hoang lớn, trồng ngô, vụ đầu thu hoạch rất khá, được coi là con đường dẫn đến
việc nâng cao đời sống của nhân dân như ông nói chủ nghĩa nào hơn chủ nào, phải
lấy thước đo là miếng thịt bò rán to hay nhỏ. Vài vụ sau, đồng trơ đất thịt,
cây ngô, bắp ngô nhỏ lại.
Thất vọng, Khrouchev nói và làm tuỳ
hứng và không tự kiềm chế, lúc nào cũng thao thao bất tuyệt: Nhân cách thô lỗ,
ông phê phán chủ nghĩa bè phái của Stalin, song ông cũng thi hành chính sách bè
phái của ông, hình thành vây cánh, gạt bỏ những người khác quan điểm như :
Molotov, Kaganovich, Pervukhin, Serpilov.
Tháng 11 năm 1964, nhân khi ông đi
Beograd thăm ông bạn Tito, các tướng lĩnh do Zoukov người anh hùng giải phóng,
đánh đổ ông, đưa Bréjenev lên thay. Sự thật thì người đứng đầu cuộc chính biến
này là Souslov người làm công tác lý luận thời Stalin. Brejenev là một trung
tướng chuyển ngành làm Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Arménia, Kôxưghin là Phó
thủ trưởng cũ.
Các nhân vật này quay trở lại con
đường Stalin, thi hành chính sách của ông này do Souslov dẫn đầu...
Đẩy mạnh phát triển kinh tế theo
chiều rộng, chủ yếu là khai thác tài nguyên thiên nhiên, đạt được nhịp độ tăng
trưởng cao, đời sống kinh tế nhộn nhịp, đời sống của nhân dân khá hơn trước.
Việc phát triển kinh tế theo chiều rộng chỉ có giới hạn vì vùng khai thác sâu
và đi xa, giá thành càng tăng.
Nửa sau những năm 1970, nền kinh tế
đi xuống. Tình hình lại căng thẳng vì, một mặt là cuộc chạy đua vũ trang với
các nước đế quôc, chi phí quốc phòng luôn luôn ở mức cao. Mặt khác, cuộc tranh
chấp quyền lãnh đạo với Trung Quốc, ngân sách chi cho việc tập hợp lực lượng
cũng khá lớn. Kinh tế và đời sống đều xuống dốc.
Ba nhà lãnh đạo cao nhất không tránh
khỏi già yếu. Mọi hoạt động trị trệ, ấy thế mà, sau khi nêu khẩu hiệu xây dựng
xã hội phát triển liên tiếp thì đề xuất khẩu hiệu mới quá độ lên chủ nghĩa cộng
sản bằng xây dựng những công trình đồ sộ cộng sản chủ nghĩa như việc mở rộng
đường xe lửa dọc Baican, Souslov, Brejenev, Koxưghin lần lượt ra đi.
Trong hai năm, bốn lần thay đổi Tổng
Bí thư, sau Brejenev là Anđrôpov. Ông này muốn thi hành một cuộc cải cách thật
sự, ông là một người có tầm cớ. Chẳng may số phận không dành cho ông sự nghiệp
ấy. Ông sớm từ trần.
Cuộc tranh chấp quyền lực lại dẫn
đến một sự dung hoà đưa Chernenkô, một người suốt đời làm công tác hành chính,
đã già, làm Tổng Bí thư. Vì đã già ông cũng ra đi.
Gorbachev được bầu với 57% số phiếu
của Uỷ ban Trung ương (lần đầu có cuộc bầu cử sòng phẳng vì có sự tranh chấp)
và Gorbachev hành động như thế nào như ở trên đã nói. Ông cũng là người phiêu
lưu, hành động tuỳ hứng, không có phương hướng rõ ràng, thúc đẩy quần chúng lại
bị quần chúng thúc đẩy “thất quốc vong gia”.
Đến đây, chuyển sang nói về chủ
nghĩa Marx vào cuộc ở Trung Quốc, nước đông dân thứ nhất, rộng thứ hai trên thế
giới.
Cuộc cách mạng dân chủ tiến bộ của
ông Tôn Văn, không theo mô hình mấy nước Tây Âu, nổ ra và thắng lợi năm 1911 ở
Nam Trung Quốc bị chuyển hướng năm 1911 theo con đường cũ phong kiến quân phiệt
của Viên Thế Khải. Nhân vật này bị đánh đổ. Ông Tôn trở lại chính quyền. Nhân
thắng lợi của cách mạng Nga, ông hướng theo nước Nga, thay đổi chính sách từ
cuộc cách mạng mang bản chất tư sản, chuyển sang thi hành chính sách liên minh
với nước Nga, hợp tác với giai cấp công nhân. Lênin ủng hộ chủ trương của Tôn
Văn, thiết lập liên minh và đáp ứng yêu cầu cử cố vấn đến và nhận người Trung
Quốc đến nước Nga học. Tiếc thay năm 1924, Lênin qua đời. Năm 1925 ông Tôn cũng
không ở lại. Các thế lực phản động Trung Quốc trỗi dậy. Năm 1927 Tưởng Giới
Thạch, người đã học ở Liên Xô cùng với ông Tôn và Tôn Khoa dùng bạo lực lật đổ
chính phủ trung ương. Viên Thế Khải đứng đầu bãi bỏ liên minh Trung Quốc - Nga
và hợp tác với công nông trong nước. Tưởng phát động một cuộc khủng bố trắng.
Các thế lực phong kiến lãnh chúa, quân phiệt còn cơ sở mạnh ở Trung Hoa không
nhường bước cho một chế độ dân chủ tiến bộ dù bản chất vẫn là tư sản, giống như
nước Pháp những năm 1790 không chấp nhận phái Jacobain lập lại chế đô phong
kiến để tự nó xây dựng nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Thắng lợị của cách mạng Nga, có ảnh
hưởng trực tiếp đến Trung Quốc, trực tiếp đối với phong trào yêu nước của thanh
niên và tầng lớp trí thức. Những người lãnh đạo phong trào Ngũ Tứ (49) đã thành
lập Đảng Cộng sản Trung quốc. Những người đó là Trần Độc Tú, Lý Đại Chiêu và Cù
Thu Bạch. Họ theo con đường của Lênin và chính sách của Tôn Văn.
Sau cuộc chính biến của Tưởng, phái
chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Stalin, 28 người bolchevick, đã học ở Liên Xô về,
chủ trương phát động cuộc Đại cách mạng vô sản đánh đổ chế độ quân phiệt, Mao
Trạch Đông cũng theo phái này, lúc đầu đánh đổ Trần Độc Tú không tán thành con
đường đó vì cũng cho rằng Trung Quốc chưa đủ điêù kiện làm cách mạng vô sản.
Một cuộc khởi nghĩa công nông ở thành thị và nông thôn đánh đổ chính quyền quân
phiệt. Thiết lập các phe Xô viết. Cuộc khởi nghĩa và đấu tranh vũ trang nổ ra
từ cuối năm 1927 mở rộng cả vùng Hoa Nam và Hoa Bắc kéo đến cuối năm 1934, bị
năm lần vây quét của quân Tưởng, các lực lượng Hồng quân công nông phải rút lui
về phía Tây Trung Quốc. Trên đường rút quân đến thị trấn Tuấn Nghĩa thuộc tỉnh
Quế châu, Mao Trạch Đông, Uỷ viên trung ương Đảng Cộng sản chuẩn bị khu xô viết
Hồ Nam, vận động một cuộc hội nghị, ngoài Mao có Trương Văn Thiên (Lạc chú),
Tổng Bí thư Trương Quốc Đào, phó Tổng Bí thư Chu Ân Lai, uỷ viên Bộ Chính trị,
Chủ tịch Uỷ ban quân sự, Chu Đức phê phán sai lầm của Trung ương do Vương Minh,
Uỷ viên ban chấp hành Quốc tế Cộng sản chỉ đạo dẫn đến thất bại buộc phải rút
lui. Hội nghị đồng ý và cử Mao là Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Uỷ ban quân sự
chỉ huy cuộc rút quân. Trên đường rút quân nảy ra cuộc mâu thuẫn về hướng rút:
Mao về Thiểm Tây, Trương về Khang Tạng. Đội quân phải chia thành hai đội theo
Tây Nam và Tây Bắc.
Khi đi tổng số quân là 300.000, khi
đến Thiểm Tây chỉ còn 30.000 (lực lương theo Mao) Sau khi củng cố lực lượng vũ
trang còn lại và xây dựng khu căn cứ ở Diên An, Mao mở chiến dịch phê phán
đường lối chính trị giáo điều làm theo cương lĩnh cách mạng của Đại hội Quốc tế
Cộng sản do Stalin chỉ đạo soạn thảo, phát động Đại cách mạng vô sản. Cuộc đấu
tranh diễn ra cực kỳ ác liệt. Vương Minh, Lý Lập Tam, bị phê phán đích danh và
cách hết mọi chức vụ.
Một Ban lãnh đạo mới được chỉ định
gồm Mao là Chủ tịch và các nhân vật trọng yếu sau đây: Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân
Lai, Trần Vân, Nhiệm Bật Thời, Khang Sinh. Phê phán và bác bỏ đường lối và
những người đề xuất thực hiện đường lới đó là một cuộc chính biến chống Stalin.
Song quan hệ giữa Đảng Cộng sản do Mao đứng đầu vẫn duy trì một cách lỏng lẻo
với Liên Xô và Quốc tế Cộng sản.
Một phái viên Quốc tế Cộng sản bề
ngoài lấy danh nghĩa là phóng viên hãng tin Liên Xô TASS bên cạnh Đảng Cộng sản
Trung Quốc. Người này tên là Vladimirov. Đảng Trung Quốc vẫn gửi người sang
Liên Xô học về chữa bệnh.
Sau vụ bắt cóc Tưởng Giới Thạch ở
Tây An năm 1937 do Trương Học Lương tổ chức, một cuộc hợp tác bắt buộc giữa
Đảng Cộng sản và Đảng Quốc Dân lại được thực hiện. Không giống cuộc thứ nhất do
ông Tôn Văn chủ trương giữ vững, lần này đã trải qua một cuộc chém giêt lẫn
nhau trong mười năm (1927-1937). Ký kết với nhau là hợp tác, quân dội của Đảng
Cộng sản Trung Quốc đã gia nhập quân đội chung song vẫn duy trì hoạt động
riêng, gồm hai lộ quân. Cuộc đàm phán tiếp tục kéo dài từ khi chính phủ Quốc
dân Đảng bị quân Nhật tấn công phải rời về Trùng Khánh.
Trong thời gian từ năm 1937 đến 1949
trên đất diễn ra hình thái chiến tranh ba bên, hai bên Trung Quốc và hai bên
Nhật Bản (Quốc, Cộng, Nhật và bù nhìn của Nhật là chính phủ Uông Tinh Vệ), quân
đội Quốc dân đảng vẫn tiến công Quân giải phóng. Các chiến khu của Đảng Cộng
sản mở rộng. Quân đội và chính quyền Quốc dân đảng ngày càng suy yếu. Quân đội
Quốc dân đảng có 5 triệu binh sĩ, tinh thần chiến đấu kém. Quân giải phóng có
bốn dã chiến quân I, II, III, IV.
Sau khi chiến tranh thế giới kết
thúc, Đảng Cộng sản tại Đại hội lần thứ VII họp ở Diên An, chủ trương lập chính
quyền liên hiệp với Quốc dân đảng, song không thực hiện được.
Quốc dân đảng phát động chiến dịch
quân sự tiến công Diên An. Đảng Cộng sản rút lui, không bị tổn thất rồi đánh
quật lại từ khu Đông Bắc (Mãn Châu Quốc của Nhật Bản) được Liên xô trang bị
thêm quét sạch quân Tưởng, lập chính quyền mới do Cao Cương đứng đầu, Tiếp đó
mở chiến dịch Hoài Hải cuối cùng, tập hợp lực lượng vượt Trường Giang quét sạch
quân Tưởng, sáng lập nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, tháng 10-1949.
Tư tưởng hoặc chủ nghĩa Mao ra đời
từ năm 1942 khi Mao viết tác phẩm ”Luận tân dân chủ cách mạng”, chủ
trương thành lập chế độ dân chủ mới, thực hành chuyên chính bốn giai
cấp: Công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc. Ông nói: Người Đức,
người Nga và người Trung Quốc ta, ông Tôn Văn có chủ nghĩa của mình thì ta cũng
phải có chủ nghĩa của ta. Muốn tỏ ra khiêm tốn, ta gọi là tư tưởng
(do Lưu gợi ý). Thực chất cuộc cách mạng của Mao là cách mạng của nông
dân, chiến tranh nông dân. Lịch sử thường lập lại như di truyền ở Trung
Quốc đã có phong trào nông dân Khăn Vàng, Hoàng Sào, Lương Sơn Bạc, Thái Bình
Thiên Quốc. Sau này, khi đã cầm quyền Mao cũng là hình ảnh Tần Thuỷ Hoàng, Lưu
Bang (trước đó, ông cũng là Trần Thắng, Ngô Quy ?). Về quân sự, Mao là người
thừa kế Tôn Vũ, Ngô Khởi).
Cách mạng Trung quốc, chủ nghĩa Mao
đều là sản phẩm văn hoá của Trung Quốc.
Những sai lầm sau này của Mao cũng
là sự kế thừa của quá khứ. Mao là một người Mác-xit, các bài văn của ông đều
thể hiện quan điểm giai cấp, kể từ bài khảo sát phong trào nông dân tỉnh Hồ
Nam, phân tích các giai cấp Trung quốc đến những bài chỉnh đốn Tam phong, Mâu
thuẫn luận, Thực tiễn luận... Marx và Engels là người Đức, triết học do ông xây
dựng cũng mang phong cách Đức vì..người Đức là dân tộc triết học, tư duy khái
quát rất phổ thông - có khi khái quát vội. Truyền bá vào xã hội Trung Quốc và
người Trung Quốc tiếp thu chủ nghĩa Mác cũng mang theo phong cách Hán vì nó
phải xuất phát từ lợi ích Trung Quốc và kết hợp với văn hoá Trung Quốc. Chủ
nghĩa Mác mang những phong cách khác nhau, do không gian và thời gian quyết
định. Nói chủ nghĩa Mác bất biến là không mac-xít, tức là không thấm nhuần chủ
nghĩa duy vật biện chứng.
Hai cuộc cách mạng Nga và Trung Quốc
chi phối tất cả các nước cách mạng khác ở châu Âu, châu A, châu Phi, châu Mỹ
với mức độ khác nhau. Thực tế mô hình của hai nước này ảnh hưởng đến tất cả các
cuộc cách mạng khác, cách mạng xã hội và cách mạng giải phóng dân tộc.
Sự biến đổi tích cực bắt đầu từ khi
những người cách mạng cộng sản cũng như dân tộc chủ nghĩa nắm được quyền lực.
Bắt đầu là củng cố, tăng cường thế lực thống trị về sau thành lập quyền lực cá
nhân, tai hoạ xuất phát từ đây ở các nước xã hội chủ nghĩa cũng như dân tộc chủ
nghĩa.
Cuộc đấu tranh quyền lực trở thành
một thảm hoạ. Đó là hiện tượng quá khứ quyết định tương lai. Trình độ thấp kém
của kinh tế, xã hội rất khó đẻ ra một chế độ, một xã hội, một lối sống văn
minh. Đó cũng là một vấn đề lớn mà Mác và Engels chưa thấy. Trường hợp người
đứng đầu cách mạng trình độ hiểu biết có hạn, nhân cách kém cỏi thì tai hoạ
càng lớn.
Cũng như Stalin và những người lãnh
đạo Liên Xô sau này, Mao cũng mắc những sai lầm giống nhau và tầm vóc cũng ghê
gớm không kém.
Qua bài thơ vịnh Tết làm khi tinh
thần phấn chấn trên đường về Bắc Kinh tuyên bố thành lập nước Cộng hoà Nhân
dân, ông cảm thấy sự nghiệp của ông Tần Thuỷ Hoàng, Hán Đế không thể so sánh.
Từ đây quyền uy tuyệt đối của ông ở trong nước và cả đối với quốc tế không thể
thách thức. Sau khi Stalin qua đời, ở Bắc Kinh người ta lưu truyền thuyết trung
tâm cách mạng đã dời về Trung Quốc. Lưu, Đặng một thách thức với ông, ông phát
động quần chúng đánh đổ cả hệ thống lãnh đạo của Đảng, lập ra một hệ thống
khác. Dựa vào thế lực, Lâm Bưu đánh đổ Lưu, Đặng. Làm lại mưu toan thách thức
uy quyền của ông. Ông đã giáng trả. Đại hội lần thứ VIII của Đảng quyết định
con dường phát triển của Trung quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội, ông chống lại
chủ nghĩa xét lại, đề xuất đường lối khác, tiến nhảy vọt. Thành lập công xã
nhân dân tiến thẳng đến chủ nghĩa cộng sản kiểu Hồng Tú Toàn vừa chống Lưu,
Đặng, vừa chống Khrouchev. Sự tàn phá rất lớn. Khi Mao qua đời thì Trung Quốc
đã bên bờ vực thẳm. Nhờ con đường thực dụng của Đặng, nước Trung Hoa thoát
hiểm, đi lên mạnh mẽ.
Phần thứ ba
Bài Học
Sự tan rã của chủ nghĩa xã hội ở
Liên xô (15 nước), Bungari, Đông Đức, Ba Lan, Rumani, Hungari, Tiệp Khắc,
Anbani, Nam Tư (mới), Mông Cổ, Trung Quốc (phần của Mao) và thất bại của những
cuộc phiêu lưu ở Inđônêxia (2 lần: 1938 và 1965), Nam Yêmen, Ethiopia,
Bolivia,.. Els Sanvador, Nicaragoa cho nhiều bài học lớn. Sự co lại như miếng
da lừa của Balzac, phong trào cộng sản ở các nước công nghiệp hoá trong đó có
những thế lực một thời oanh liệt ở các nước Pháp, Italia, trong khi đó phong
trào xã hội dân chủ vẫn là một thế lực lớn, một số đảng cầm quyền đã thi hành
được nhiều chính sách tiến bộ điều tiết các thế lực tư bản chủ nghĩa.
Cuộc thí nghiệm đã thực hành trong
mấy chục nước ở nhiều châu lục và tồn tại lâu nhất trên 70 năm, nước đi sau
cũng nửa thế kỷ.
Liên Xô cũng giành được những thắng
lợi có tính toàn cầu như sau Cách mạng tháng Mười là thắng lợi chống nước Đức
phát xit, nước Nhật quân phiệt, và những thành tựu biến một nước công nghiệp
mới ở giai đoạn đầu, căn bản vẫn là một số nước tiểu nông với mức độ khác nhau
thành một nước nông nghiệp mạnh, xây dựng được một nền khoa học, một nền kỹ
thuật tương đối tiến bộ, với một đội ngũ các nhà khoa học tiên phong khá đông,
đi đầu trong công cuộc chinh phục vũ trụ.
Những bài học thành và không thành
đều cần tổng kết nhằm giúp vào việc nhận thức lại dưới ánh sáng của hơn một thế
kỷ đi vào cuộc sống, của chủ nghĩa Mác và của nền văn minh mới của nhân loại,
đổi mới, bổ sung và phát triển trong thời cơ lớn, lấy lại sức sống và là động
lực phát triển của lịch sử.
Vì đâu mà lại xuất hiện những nhân
vật có thể tiêu diệt hàng triệu người, buộc cả một đảng, một dân tộc phải nghe
theo, không dám chống lại sau một cơn nổi giận, có thể đánh đổ tất cả những gì
đã xây dựng do bao xương máu và nước mắt của nhiều thế hệ.
Thật không ngoa: Gengis Khan,
Napoléon, Hitler không thể sánh vai với Stalin; Tần Thuỷ Hoàng, Hán Cao Tổ,
Đường Thái Tôn không thể sánh với Mao Trạch Đông.
Thậm chí ở một nước nhỏ như Bắc
Triều Tiên, một Kim Nhật Thành có thể nắm quyền sinh sát. Cuba, Bắc Triều Tiên
vẫn còn đứng vững sống, nhân dân buộc phải sống căng thẳng kéo dài.
Phải chăng có thể có mấy bài học lớn
sau đây:
Lịch sử xưa nay vẫn đi theo con
đường tự nhiên của nó
Sự can thiệp của con người không thể
phá bỏ quy luật, một chế độ kinh tế xã hội chỉ có thể thay đổi do sự phát triển
đến hạn của kỹ thuật sản xuất và một nền văn hoá phù hợp. Cái con người có thể
thay đổi là thế lực và thể chế quyền lực song cũng có giới hạn, quá khứ sẽ
giành lại nếu đi quá xa, tuân theo qui luật vận động khách quan không phải là
sùng bái sự tự phát. Thoát ly, bất chấp qui luật vận động khách quan thì cái
giá phải trả rất cao, dẫn đến những thảm hoạ lịch sử. Cũng có những cơ hội tạo
ra được những bước ngoặt đi lên, con người phải sẵn sàng tranh thủ nhưng chỉ đi
xa khỏi giới hạn.
Ở các nước tư bản chủ nghĩa phát
triển, chưa có cuộc cách mạng vô sản nào bùng nổ. Ơ đây, người ta vẫn đi theo
con đường tiến hoá cải lương. Các đảng cộng sản kị đảng nào tập hợp được lực
lượng bằng con dường bạo lực đánh đổ chế độ tư bản.
Các cuộc cách mạng nổ ra và thắng
lợi trong thế kỷ thứ 20 đều ở các nước nông nghiệp tàn dư phong kiến còn nặng,
tiêu biểu là Nga và Trung Quốc, Mông Cổ thì còn lạc hậu hơn, kinh tế du mục.
Một số nước là thuộc địa. Thực chất các cuộc cách mạng ấy là dưới ngọn cờ giải
phóng xã hội. Những người cách mạng tổ chức ra lực lượng chiến đấu, nắm được
thời cơ, đánh đổ bộ máy cầm quyền bị nhân dân oán ghét vào lúc nó suy yếu do
chiến tranh, thiết lập chính quyền cách mạng.
Bản chất các cuộc cách mạng ấy là
cách mạng nhân dân, cách mạng giải phóng dân tộc ở nước thuộc địa như Việt Nam.
Tất cả các nước xã hội chủ nghĩa đều
đã theo con đường của Liên Xô và đều phá sản. Trung Quốc buộc phải chuyển hướng
sau Cách mạng Văn hoá, thực chất là nội chiến, tranh chấp quyền lực trong nội
bộ Đảng Cộng sản.
Việt Nam lúc đầu cũng đi theo con
đường của Liên Xô và Trung Quốc, sau hai cuộc chiến tranh, đất nước, kinh tế bị
tàn phá, buộc phải quay trở lại con đường do Nhà nước cách mạng xác định từ khi
mới ra đời, phát triển công thương nghiệp dân tộc, mở rộng kinh tế thị trường,
các hình thức kinh tế và giao lưu quốc tế.
Sau này, tất cả các nước xã hội chủ
nghĩa tan rã đều đi vào kinh tế thị trường.
Bài học rõ ràng đã thông qua thất
bại phải trở lại từ đầu trong hoàn cảnh mới, nhiều điều phải đi vào thời đại
mới.
1/ Lúc đầu đúng về phương pháp tiếp
cận khoa học, sau đó lại hướng nhảy quá cao thành nguy hiểm dẫn đến tai hoạ.
Đảng công nhân xã hội lúc đầu đưa ra
cương lĩnh cách mạng tư sản dân chủ, tức là cách mạng tư sản công, nông có thể
gọi là nhân dân, không phải của tư sản trong thế kỷ 19, triệt để hơn cuộc cách
mạng dân chủ của đẳng cấp thứ ba ở Tiệp lúc bấy giờ, hai giai cấp tư sản và vô
sản chưa hình thành mới chỉ có mầm mống, sau đó Napoléon đã đẩy mạnh sự phát
triển công nghiệp, kinh tế, chính trị (thể chế tư sản), văn hoá.
Nước Nga phong kiến chuyên chế, từ
Pierre thứ nhât bắt đầu công nghiệp hoá, đến đầu thế kỷ 18 mới vào giai đoạn
đẩu của chủ nghĩa tư bản, song về cơ bản vẫn là chế độ phong kiến lãnh chúa
điều hành.
Khi đi vào một cuộc cách mạng, điều
quyết định thành bại là phải xác định nó bắt đầu và sẽ đi đến đâu trước mắt, từ
đó, quyết dịnh chủ thể cách mạng là những lực lượng xã hội nào. Không có cuộc
cách mạng nào lại xuât phát từ chỗ chân không và tiến tới một khoảng không mênh
mông. Cách mạng là cải tạo tình trạng không phù hợp, không có các động lực của
phát triển, quần chúng bất bình. Sự phát triển bao giờ cũng là sự tiếp nối,
giành lại những cái hiếm có hợp lý, thay những cái không hợp lý thành cái hợp
lý.
Sự tiếp cận ban đầu của Lênin là
tương đối đúng với Nga, không đúng với các nước công nghiệp Tây Âu, cách tiếp
cận của Bertain, Causky là đúng với các nước đó, các con đường có thể song
song. Chủ trương chuyển lên chủ nghĩa vô sản, đi ngay vào chủ nghĩa cộng sản
tháng 4 năm 1919 và giải pháp tình thế dẫn đến thắng lợi của Cách mạng tháng
Mười song lại là nguyên nhân trực tiếp đổi mới và sự can thiệp vũ trang của chủ
nghĩa tư bản quốc tế. Sự trở lại con đường ban đầu, thay đổi căn bản nhận thức về
con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước Nga, thực hiện chính sách kinh tế
mới, vừa là giải pháp tình thế, vừa là con đường đúng.
Bãi bỏ con đường ấy, trở lại chủ
nghĩa cộng sản là bước vào con đường nguy hiểm dẫn đến trì trệ và phá sản sau
này. Thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa Tháng Mười của công cuộc công nghiệp
hoá, của cuộc chiến tranh chống phat xít là thắng lợi của tinh thần yêu nước,
như đã đánh thắng Napoléon, của tư tưởng nhiệt tình cách mạng. Nguyên nhân dẫn
đến thất bại là sự hy sinh cuộc sống, lợi ích vật chất và tinh thần của con
người, của đời sống gia đình và cá nhân, tất cả đều nhân danh tập thể, bất chấp
lợi ích từng người.
Trong khi phải đương đầu với chủ
nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh thế giới, đề xuât chính sách liên minh
dân chủ, chủ nghĩa dân chủ mới cũng là giải pháp tình thế, đồng thời trở lại
con đường đúng đắn ban đầu tạo ra động lực mới.
Sau thắng lợi chống chủ nghĩa phát
xít, lại bãi bỏ một cách tàn bạo ở tất cả các nước châu Âu và châu A. Sự tiến
tới chủ nghĩa xã hội kiểu Liên Xô hoặc Trung Quốc mà nhiều nước mới thoát khỏi
chủ nghiã thực dân nhanh chóng thất bại vì cũng là những mạo hiểm quá sức (saut
périlleux).
Tất cả các nước xã hội chủ nghĩa cũ,
sau năm 1990 đều trở lại kinh tế thị trường đi vào quá trình toàn cầu hoá trong
nền văn minh mới, nghĩa là phải làm lại từ đầu trong thời đại mới. Một thế kỷ
cách mạng oanh liệt, thắng lợi vẻ vang và thất bại nặng nề. Cái giá phải trả to
lớn không thể nói hết. Điều có ích lớn là nhận thức đúng những bài học và xác
định đúng con đường phát triển trong kỷ nguyên trí thưc, khoa học, trí tuệ là
nhân tố thắng lợi cơ bản.
Nếu nói quyền lực là vấn đề then
chốt của cách mạng thì bản chất quyền lực như thế nào là vấn đề quan trọng đầu
tiên.
Một xã hội tương lai như bản phác
thảo của Marx và Engels trình bầy ít tranh cãi trong phong trào cộng sản, những
vấn đề tranh luận gay gắt kéo dài là con đường chủ thể cách mạng và quyền lực
thay thế quyền lực cũ.
Đối với những người đối lập với chủ
nghĩa Marx thì học thuyêt cơ bản bị coi là một ảo tưởng, một thảm hoạ nhân
loại, chủ nghĩa tư bản là xã hội hợp lý sẽ tồn tại lâu dài và khắc phục khuyết
tật của nó.
Marx, Engels chủ trương chủ thể cách
mạng chỉ là giai cấp vô sản song trong thực tế, giai cấp ấy không tồn tại ở mọi
không gian, thời gian. Lênin nhận định chủ thể cách mạng ở nước Nga là giai cấp
công nhân và nông dân, vai trò chủ đạo là công nhân, nông dân cũng xem xét theo
tiêu chuẩn công nhân. Mao nhận định từ đầu là nông dân, có lúc nói là của bốn
giai cấp, cuối cùng trở lại nông dân, coi giai cấp công nhân đã tư sản hoá, quý
tộc hoá ở Liên Xô và các nước châu Âu. Mao nói: Tôi sẽ tranh luận với Karl, vấn
đề tôi đúng hay ông đó đúng. tôi nói : ”Nông dân cách mạng nhất”. Mác nói “Công
nhân”. Hãy trông vào thực tế cách mạng.
Hồ Chí Minh nói: “Cách mạng là
của nhiều lực lượng xã hội”, năm 1922 ông thêm vào khẩu hiệu: Vô sản tất
cả các nước, đoàn kêt lại ! bằng khẩu hiệu: “Tất cả các lực lượng bị
áp bức, bóc lột đoàn kết lại”. Marx nói giai cấp vô sản đánh đổ giai
cấp vô sản các nước tư bản, làm cách mạng giải phóng mình đồng thời giải phóng
toàn nhân loại. Bác Hồ nói: ”Các dân tộc phải tự mình làm cách mạng,
không trông chờ giai cấp vô sản các nước chính quốc”. Ở các nước
thuộc địa, chủ thể cách mạng là toàn dân. Ơ đây, sự phân hoá xã hội
khác với các nước công nghiệp. Chế đô phong kiến cũng vậy, không có chế độ lãnh
chúa.
Quyền lực cách mạng, chế độ mới
thuộc về ai cũng là vấn đề tranh luận về đấu tranh, vô cùng phức tạp. Marx và
Engels chủ trương chuyên chính vô sản, bá quyền vô sản, Lênin nhất trí và đi xa
hơn khi ông viết tác phẩm Nhà nước và Cách mạng (sau tháng Mười, dự định viết
lại song không được). Mao đưa ra thuyết Đảng Cộng sản, chính quyền Nhà nước đều
ra đời từ họng súng của đội quân nông dân, ông đã nã pháo vào bộ tư lệnh của
Đảng Cộng sản Trung quốc mà ông cho là đã đi theo con đường tư bản chủ nghĩa.
Vấn đề này trở thành những cuộc tranh chấp quyền lực đẫm máu ở Liên Xô, Trung
Quốc và nhiều nước khác, sau khi Đảng cộng sản nắm chính quyền. Về lý thuyêt
thật thì đề cao chính quyền của giai cấp, Đảng của giai cấp; trên thực tế biến
thành Đảng của giai cấp, Đảng trở thành siêu quyên lực, trên thực tế trở thành
quyền lực của một nhóm nhỏ, của một nhân vật đứng đầu, một chế độ cực quyền cá
nhân, tạo thành trở lực cực kỳ lớn, triệt tiêu động lực cũng cực kỳ lớn của sự
phát triển.
Ở Liên Xô, cuộc đấu tranh quyền lực
diễn ra ngay lập tức sau khi Stalin qua đời. Stalin chết, cuộc đấu tranh quyền
lực lại tiếp tục. Khroutchev loại trừ thế lực của Stalin muốn thay đổi cả đường
lối cũ, song không kịp thực hiện đã bị đánh đổ. Cuộc tranh chấp quyền ưực tiếp
tục sau khi bộ ba: Brejenev, Souslov, Koxưghin qua đời giữa Gorbachev và Yelsin
Ở Trung quốc, cuộc tranh chấp quyền
lực diễn ra liên miên từ những năm 1920 giữa nhóm 28 người bolchevich được đào tạo
theo con đường Stalin với Trần Độc Tú, giữa Mao và nhóm người ấy, giữa Mao và
Lưu, Đặng (lũ bốn tên thuộc về Mao, giữa Mao và Lâm Bưu và sau này giữa các thế
lực diễn ra kín đáo hơn).
Nói tóm lại, thì gần như trong tất
cả các Đảng cầm quyền đều thực hiện quyền lực cá nhân (nói thành thật là Hồ Chí
Minh từ đầu đã phản đối và kiên trì chống tranh chấp quyền lực và tự mình nêu
gương, bao giờ cũng dựa vào tập thể và nhường quyền điều hành cho nhân vật lãnh
đạo thứ hai).
Tệ chuyên quyền cá nhân, hình thành
đẳng cấp đặc quyền đặc lợi, đã bị phê phán nhưng không đánh đổ được, chỉ có
hiện tượng đánh đổ lẫn nhau. Tệ chuyên quyền cá nhân, cực quyền hơn cả các vua
chúa ngày xưa, kiềm chế quần chúng về mọi mặt. Tần Thuỷ Hoàng đốt sách nho,
chôn sống nhà nho. Chế độ cực quyền cá nhân kiểm soát toàn xã hội cả đời sống
kinh tế, văn hoá, cuộc sống gia đình, cho gì ăn nấy, chỉ có quyền vâng lời,
không được phép nói trái với người lãnh đạo.
Chế độ cực quyền còn có cái hoạ là
nhân cách, phong cách của nhân vật nắm trọn quyền lực, anh ta có thể phá sạch
thành trì, tiêu diệt hàng triệu sinh mang, ban phúc, gieo tai hoạ, tâm lý thất
thường.
Là quyền lực của nhân dân là tất yếu
và nhiều nhân vật lãnh đạo nói quá nhiều. Mọi quyền lực đều của nhân dân, dân
chủ mà dân chủ gấp triệu lần nền dân chủ tư sản, dân chủ nhất. Nhận định như
vây là đúng với quy luật phát triẻn vì nền dân chủ này là nền dân chủ ban đầu
của cách mạng dân chủ tư sản phát triển thành nền dân chủ chung, chứ không phải
về thực chất là của giai cấp tư sản, trang trí bằng các vỏ dân chủ hào nhoáng
đánh lừa được nhiều người, các thứ tự do đều có những quyền lực và két bạc của
giai cấp tư sản không hề lay chuyển, mất mát.
Quyền lực thực sự là của dân, do dân
và dân được thể hiện đầy đủ trong thực tiễn thì sức mạnh của nền dân chủ là vô
địch, cả lực lượng vật chât lẫn tinh thần. Nhờ thực tiễn chưa thật đầy đủ nhưng
các cuộc kháng chiến của ta chống các thế lực xâm lược to lón là sức mạnh của
toàn dân. Nó là vô địch. Hình thức quyền lực mỗi nước một khác, ở đây là Xô Viết,
nói khác là cộng hoà dân chủ, không nên rập khuôn.
2/ Các nước đi vào chủ nghĩa xã hội
năm 1917, những năm 1950, đều là những nước lạc hậu về kinh tế và văn hoá, nền
sản xuât chủ yếu vẫn là tiểu nông, xã hội tiểu nông, số người mù chữ khá đông. Trừ nước Nga, các nước khác chưa có nền móng của một nền
khoa học, kỹ thuật tiên tiến. Vì vậy, các nước đó phải tham khảo con đường của
Lênin, chính sách kinh tế mới, từng bước tổ chức lại nền sản xuất, nền cơ sở
mới, nền kỹ thuật tiên tiến, tổ chức lại sản xuất, kinh doanh có hiệu quả nhằm
xây dựng một nền sản xuất lớn hàng hoá, xoá bỏ trạng thái thủ công, công
thương, tự cấp, tự túc giống như chủ nghĩa tư bản đã làm nửa sau thế kỷ 19, đầu
thế kỷ 20, chuẩn bị cho cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ hai.
Đi sau chủ nghĩa tư bản về cách mạng
công nghiệp, các nước xã hội chủ nghĩa có thể đi thẳng vào giai đoạn thứ hai
của cuộc cách mạng ấy nếu coi thế giới là một thị trường, không đóng cửa, cự
tuyệt giao lưu. Không chấp nhận những qui luật kinh tế khách quan như quy luật
cạnh tranh, quy luật tích luỹ để tái sản xuất mở rộng, coi nhẹ vai trò quyết
định của khoa học, kỹ thuật làm teo đi những động lực của sản xuất. Stalin lúc
đầu cho rằng, một nền kinh tế kế hoạch hoá không phụ thuộc vào những quy luật
khách quan, về sau lại được đưa vào một luận điểm có tính phiến diện và làm
trái lại. Quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội là thoả mãn ngày càng
đầy đủ hơn những nhu cầu về đời sống vật chất và văn hoá của những người lao
động.
Chủ nghĩa tư bản thực hiện tích luỹ
ban đầu là phát triển nhanh công nghiệp nhẹ để thu lãi nhanh. Liên xô, xuât
phát từ luận điểm, công nghiệp nặng là nền tảng của nền kinh tế, có nền công
nghiệp nặng do mình xây dựng bằng kỹ thuật của mình mới bảo đảm thắng lợi của
chủ nghĩa xã hội, và nền quốc phòng, sẵn sàng đối phó với nguy cơ chủ nghĩa đế
quốc tiến công. Xây dựng được một nền công nghiệp nặng đồ sộ, hiệu quả không
cao, tích luỹ không đáng kể, không còn đủ đầu tư cho việc phát triển công
nghiệp nhẹ, hình thành một nền kinh tế thiếu hụt kéo dài. Đời sống của người
lao động kéo dài mấy thế hệ. Chính sách bình quân chủ nghĩa và thuyết tăng
lương đi liền với tăng năng suất lao động dẫn đến chỗ tắc tị là tiền lương
không đảm bảo tái sản xuât sức lao động, người lao động phải làm việc cầm chừng
để dưỡng sức hoặc tìm việc làm thêm để duy trì cuộc sống, không những năng suất
lao động không tăng mà ngày càng giảm, không có tiền để tăng lương, vấn đề xã
hội không được giải quyết tốt, hy sinh cuộc sống của con người, nhân tố quan
trọng thường xuyên của mọi nền kinh tế ắt dẫn đến mâu thuẫn xã hội, cuối cùng
là sự sụp đổ của chế độ. Một nhà lãnh đạo cỡ lớn than rằng, ông không hiểu nổi
tình trạng cùng một gia đình đám đưa con em mình ra chiến đấu mà chấp nhận hy
sinh, thế mà khi bán một con gà, con lợn, lại chi li từng đồng. Không được giá
nhất định không bán. Hai lĩnh vực này do hai qui luật khác nhau chi phối. Hy
sinh vì Tổ quốc là phẩm chất con người, là văn hoá. Hoạt động kinh tế phải theo
quy luật của nó là lợi ích vật chất. Một nhà lãnh đạo khác lại lý giải - mọi
vấn đề lợi ích một cách điển hình khi nói đến sự quan hệ giữa ba lợi ích: cá
nhân, tập thể và toàn dân. Ông giải thích: cái thứ ba quan trọng nhất, sau là
cái thứ hai, cuối cùng mới là cái thứ nhất. như ta úp cái nón lá xuống, vành ở
dưới, chóp ở trên, để ngược thì cái vành mới lên trên. Trong cuộc sống thì
ngược lại - mọi người có được sống tốt mới có thể làm tốt như ngạn ngữ của ta
có câu: “Có chuôm mới có cù lao. It cơm, ít gạo thì tao ít làm”.
Ở các nước xã hội chủ nghĩa, những
người nói đến lợi ích vật chất thì bị phê phán, vì động viên tinh thần là yếu
tố hàng đầu của sự phát triển: người ta phát động liên tục những chiến dịch sản
xuất như một cuộc thi đua Stakhanovich ở Liên Xô, Đại Trại ở Trung quốc.
Ở nước ta năm nào chẳng có mấy cuộc
vận động lớn, những cuộc tổng kết, chọn anh hùng, chiến sĩ thi đua. Huy chương,
bằng khen, cờ thi đua ở đâu cũng có. Tốn thời giờ và tiền của. Hiệu quả không
lớn.
Động viên tinh thần có mức độ, chăm
lo chu đáo đời sống hàng ngày mới thúc đẩy được sự phát triển kinh tế xã hội.
Trong khi nền kinh tế thiếu hut,
tiếp tục cái đà xuống dốc, tinh thần phấn khởi xã hội tắt ngấm, người ta lại
lao vào những công trình xây dựng lớn, dưới khẩu hiểu, hãy cố gắng lên, sắp đến
chủ nghĩa cộng sản rồi đó, chẳng khác gì các giáo sĩ Kitô kêu gọi các con
chiên, cố gắng lên các con, sắp đến thiên đường rồi đó.
3/ Thiên đường ngày càng xa
Cách mạng văn hoá phải đi liền với
cách mạng chính trị, kinh tế xã hội và thúc đẩy lẫn nhau, làm cơ sở cho nhau.
Trong lịch sử lần lượt xuất hiện - máy nền văn minh trong đó mấy nền văn minh
phương Đông xuất hiện sớm nhất, rực rỡ nhất song trì trệ suốt mấy nghìn năm.
Nền văn minh Gréco - Romain ra đời muộn hơn nhờ tạo được một cuộc đột phá lớn
bằng cuộc phục hưng, những giá trị của nền văn hoá cổ đại, có nhiều yếu tố khoa
học, dẫn đén cuộc khoa học thực nghiệm, triết học duy lý và nhiều trường phái
khác dẫn đến thế kỷ ánh sáng và cuộc cách mạng dân chủ tư sản, cuộc cách mạng
công nghiệp. Châu Âu trở thành trung tâm của phát triển lịch sử, phần còn lại
của xã hội loài người. Ngày nay, trung tâm đã chuyển sang châu Mỹ (nước Mỹ).
Nhân tố quyết định sự bùng nổ liên tục của cách mạng khoa học, kỹ thuật. Sự
bùng nổ liên tục của cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng kinh tế, cách mạng
xã hội - là châu lục này, là nơi tập hợp tinh hoa trí tuệ, nhữg nhân tài lớn
đều xuât hiện ở nhiều nước Tây Âu và Bắc Mỹ. Nhân tài ngày càng nhiều, nhịp độ
tiến hoá cũng nhanh, số nhân tài ngày càng đông. Nhân tài phản ánh bộ mặt của
đất nước.
Những nhà sáng lập chủ nghiã Mác có
cái lầm là đặt sức mạnh đội ngũ trí tuệ dưới đội ngũ sức mạnh cơ bắp. Các ông
phê phán những người trí thức gắn liền với giai cấp thống trị, bảo vệ và phục
vụ lợi ích của nó, nhiều nhà thông thái rởm.
Trong chính sách sạu này của Stalin
coi việc đấu tranh chống những khuynh hướng tiểu tư sản là mũi nhọn chiến lược.
Chủ nghĩa Marx là sản phẩm của trí tuệ, không phải của riêng Marx mà là tổng
kết lịch sử từ bộ phận phát triển nhất, nền văn minh Gréco - Romain, công cuộc
Phục hưng và thế kỷ ánh sáng.
Các nhà nước xã hội chủ nghĩa đều ra
đời ở các nước nông nghiệp, văn hoá lạc hậu, lại chịu sự chi phối của những học
thuyết cổ đại bảo thủ, hướng cổ, rất kị với những cái mới, nhất là về kinh tế,
coi thương nghiệp là cái gì bẩn thỉu, hèn hạ cần phải ức chế. Ơ châu Âu nó là
một động lực lớn, chính nó chuẩn bị và góp phần phát triển nhanh nền kinh tế,
nền văn hoá của các nước tư bản chủ nghĩa.
Ở các nước xã hội chủ nghĩa, trong
lớp những nhà trí thức thường xuyên xuất hiện nhiều khuynh hướng đối lập. Lớp
người này vừa được sự ưu ái, vừa bị săn đuổi, kể cả lớp trí thức do xã hội đào
tạo không dính dáng gì với các giai cấp bóc lột cũ. Tập hợp được lớp trí thức,
tức là tập hợp tinh hoa của xã hội, là một tiêu chuẩn đánh giá một nền chính
trị mạnh hay yếu, sức hấp dẫn nhiều hay ít. Những người trí thức biết nhiều,
thích nói, phản kháng sự áp đặt lẽ phải. Họ không dễ dàng làm việc với những
người không bằng họ về trí thức. Người cầm quyền thích ra luật, họ thích tranh
luận, không bằng lòng với vị trí xã hội của mình là bạn đường, đứng sau cùng
trong trật tự xã hội vì không rõ chiến lược giáo dục, chiến lược khoa học đi
liền với chiến lược phát triển đất nước, đào tạo ra một đội ngũ đông đảo những
người trí thức nhưng không được sử dụng, sử dụng sai hoặc vất bỏ. Nhiều nhà trí
thức của các nước xã hội chủ nghĩa chạy sang các nước tư bản chủ nghĩa. Trái
lại, hiếm có những nhà trí tuệ có tài ở các nước tư bản chủ nghĩa chạy sang các
nước xã hội chủ nghĩa. Những nhà khoa học lớn nhât, những phát kiến lớn nhất
trong thế kỷ tứ 20 là của các nước tư bản chủ nghĩa.
Những người mac-xít một mực bác bỏ
những phát hiện xã hội, văn hoá, nghệ thuật của những người ở các nước tư bản
chủ nghĩa như thuyết kỹ trị, làn sóng thứ ba, cách mạng tin học, thuyết Taylor,
thuyết Keynes đều cho là sản phẩm tư sản.
Khi tiếp xúc với các nhà trí thức
thuộc phía bên kia, những người bên này thường tỏ thái độ trịch thượng, thầy
đời, lời dài, ý hẹp.
Rõ ràng đội ngũ các nước tư bản chủ
nghĩa năng động, hoạt bát, làm nên đình đám.
Nền giáo dục của các nước xã hội chủ
nghĩa, đạt được trình độ phổ cập trung học phổ thông là một thành tựu lớn. So
với các nước tư bản chủ nghĩa thì kém về chất lượng, nhất là nền cao học, nhiều
học vị khoa hoc không xứng với học vị và đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Trên lĩnh vực khoa học cơ bản, khoa
học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, những người có học vị cao học còn khá, trong
lĩnh vữ khoa học xã hội và nhân văn, nói chung kém, về bản thân nền khoa học
gần như không có tinh thần sáng tạo. Nhiều người mac-xit ở các nước tư bản chủ
nghĩa đã chân thành phê phán hiện tượng này như: Gransei, Guraudy, Lucien Sève
(?).
Sự tìm tòi trong lĩnh vực học thuật
không được khuyến khích. Người ta cho rằng cần gì phải tìm tòi, những bài, cả
nói và viết, vì đã có nhiều toàn tập kinh điển của tuyển tập người lãnh đạo.
Không khí hoạt động của giới học
thuật buồn tẻ. Sự phân biệt đối xử giữa người trong Đảng và người ngoài đảng là
một điều gây nên hiện tượng khó chịu trong giới trí thức.
4/ Quan hệ quốc tế.
Marx và Engels kêu gọi giai cấp vô
sản các nước đoàn kêt lại, tiến hành cuộc cách mạng thế giới, đánh đổ chủ nghĩa
tư bản Quốc té, đi đén thế giới đại đồng.. Nếu là một viễn cảnh xa xôi thì cũng
là một niềm hy vọng, một ước mơ của loài người. Đặt thành nhiệm vụ bàn tiếp thì
ta không thực tế mà dẫn đến sai lầm về chính trị và tổ chức. Sự hợp tác giúp đỡ
lẫn nhau là cần thiêt. Cách mạng nhiều thay đổi hình thái kinh tế, xã hội là
một quá trình lịch sử nổ ra và thắng lợi ở từng nước, không thể bùng nổ đồng
loạt trên cả hành tinh dược, sự chỉ đạo của một bộ chỉ huy toàn cầu theo một
chiến lược thống nhất.
Việc lập ra ba tổ chức Quốc tế: Quốc
tế I, II, III có giúp đỡ một phần đáng kể cho sự phát triển phong trào cộng
sản, song nó là một cuộc tuyên chiến với chủ nghĩa tư bản các nước, kích động
đàn áp của chúng và dẫn đến sai lầm là người hô hào thành lập tổ chức này, tự
nhận là lãnh đạo thành đạt, là nhân vật trung tâm, dẫn đến tranh chấp sau đó.
Rốt cuộc các quốc tế lần lượt ra đời, lần lượt tự giải thể.
Các hội nghị quốc tế của phong trào
cộng sản, hình thức có khác nhưng thực chất vãn do Liên Xô tổ chức, soạn thảo
văn kiện. Hình thức này rồi tẻ nhạt vì người triệu tập không nuốn người ta thay
đổi nội dung văn kiện của mình, các đại biểu đọc bài gọi là tham luận viết sẵn
tán thành bản dự thảo. Nghị quyết chung được hình thành như vậy đó. Đảng Trung
Quốc lúc đầu nhận được sự giúp đỡ của Liênh Xô, về sau, người trong nước bác bỏ
chính sách của Stalinh, chủ động xác lập chính sách và tổ chức của mình, sóng
vẫn gĩ quan hệ hữu nghị lỏng lẻo, và khi Đảng Cộng sản Trung Quốc đã trở thành
Đảng cầm quyền, sự tranh chấp quyền hành lãnh đạo phong trào cách mạng quốc tể
nổ ra gay gắt hình thành hai trào lưu rồi xông tới đụng độ quân sự trong một
thời gian ngắn, nhưng đẫm máu. Liên Xô, Trung Quốc viện trợ to lớn cho nhiều
đảng, nhiều nước, song phải chấp nhận những điều kiện do họ đặt ra là tuân theo
sự chỉ đạo của người viện trợ, làm trái lại, sẽ bị căt đứt hoặc trừng phạt như
Trung Quốc tấn công Việt Nam trong một thời gian, năm 1979, ngắn ngủi, nhưng
tổn thất của cả hai bên nặng nề hơn cuộc đụng độ Xô - Trung năm 1959.
Liên Xô khống chế các khối SEV và
Warsava chặt hơn. Mỹ khống chế Liên minh Bắc Đị Tây Dương, Như Brejenev công
khai tuyên bố thuyết chủ quyền hạn chế. Do tranh chấp quyền lãnh đạo cả Liên Xô
lẫn Trung Quốc đều phải chi phí rất nhiều, làm chậm lại tăng trưởng của mỗi
nước. Bao các nước Đông Âu và các đảng đi theo mình, cả hai nươc đều giúp đỡ
Việt Nam rất to lớn và ta cũng phải trả một cái giá cao.
5/ Cách mạng là một sự nghiệp cao cả
giải phóng xã hội và con người, cải tạo xã hội bât công thành xã hội công bằng. Bản chât nhân văn của cách mạng, quyêt định phương pháp,
hình thức cách mạng, thái độ ứng xử giữa con người, thay đổi ứng xử bất nhân
bằng lối ứng xử nhân đạo. Đạo Nho coi trọng chữ nhân, chữ thiện, các tông giáo
cũng khuyên thiện chống ác.Bản chất con người là thiện. Có người nói: “Nếu coi
con người là người thì phải đối xử với nó có tính người”. Nhưng cuộc cách mạng
đã quá lạm dụng bạo lực, gây ra những vụ đàn áp rât trầm trọng như ở Liên Xô,
Trung quốc, thậm chí trong Đảng giết lẫn nhau để tranh quyền. Những nhà cách
mạng chân chính lên án những hiện tượng tàn bạo đó, nghiêm khắc phê phán những
người chủ trương mục đích là tất cả, phương tiện không đáng kể. Phải nói lại
rằng mục đích là nhân đạo, thì phương tiện sử dụng cũng phải nhân đạo.
Lỗi lầm lạm dụng bạo lực khiến cho
nhiều người xa lánh, ghê sợ cách mạng.
6/ Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
quyết định thành bại của cách mạng thể hiện rất sinh động ở các nước trong thế
kỷ vừa qua, thắng lợi và thât bại đều có tầm cỡ lịch sử như mọi người chứng
kiến, lịch sử ghi mãi những sự kiện ấy.
Những thắng lợi lớn là cách mạng
tháng 10 Nga, cách mạng Trung Quốc, Việt Nam và các nước khác, thắng lợi trong
cuộc chiến tranh thế giới chống chủ nghĩa phát xít châu Âu và chủ nghĩa quan
phiệt châu A, cả của Nhật Bản và Trung Quốc. Thắng lợi của các dân tộc thuộc
địa, nửa thuộc đia, xoá bỏ hoàn toàn chủ nghiã thực dân cũ và chủ nghĩa thực
dân mới nhờ có chỗ dựa là các nước xã hội chủ nghĩa và ảnh hưởng tư tưởng giải
phóng của chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Lênin, chủ nghĩa Mao và nhiều thắng lợi
khác.
Sự tan rã của chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xô và một loạt nước khác cũng do sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nghĩa là
cái đúng, cái sai đều có cả.
Nguyên nhân đúng sai từ đâu ra ? Đây
là một bài học lớn nhât đối với tất cả những người cách mạng.
Thắng lợi và thất bại đều bắt nguồn
từ học thuyết cách mạng ban đầu, sau đó là sự lãnh đạo của các đảng và những
nhân vật lãnh đạo của các đảng ấy.
Từ khi nắm quyền lãnh đạo đất nước,
các đảng trở thành chuyên quyền, người lãnh đạo tuyệt đối. Về danh nghĩa thì
nói rằng đảng của giai cấp công nhân, của toàn Đảng, trong thực tế thì người
đứng đầu nắm mọi quyền lực, thông qua hệ thống tổ chức thực hành mọi quyêt
định. Người đứng đầu thường nhân danh nguyên tắc tập trung, gắn thêm một cách
lỏng lẻo để chuyên quyền và giải thích là nguyên tắc cao nhất trong sinh hoạt
cuả Đảng.
Khái niệm naỳ xuất hiện từ đâu, và
nó được đưa vào hoạt động như thế nào? Năm 1847 khi được những người lãnh đạo
Liên minh những người công chính (Ligne des juste) yêu cầu cải tổ lại tổ chức
này thành một chính đảng có cương lĩnh điều lệ. Đáp lại lời mời đó Marx và
Engels nêu những điều kiện và thủ tục kết nạp các thành viên có tính tông giáo,
hai là, chính đảng mới phải là đoàn thể dân chủ, khi chuẩn bị ra các qui định
thì phải thảo luận dân chủ, mọi người đều bình đẳng khi bỏ phiếu. Cơ quan cao
nhất của toàn đảng và các cấp là đại hội. Đại hội bầu ra cơ quan chấp hành; từ
đại hội này đến đại hội sau cơ quan cao nhât là Ban chấp hành, Ban này phải
chịu trách nhiệm trước đại hội.
Lúc này chưa nói đến nguyên tắc tập
trung. Nguyên tắc này do Lênin nêu ra. Cuộc đấu tranh diễn ra gay gắt khi chuẩn
bị điều lệ của Đảng Công nhân xã hội dân chủ Nga. Vì vây, đảng chia thành hai
phái, đồng thời tồn tại đến Cách mạng tháng 10. Những người không tán thành chủ
trương của Lênin là những nhân vật hàng đầu của phong trào mac-xít lúc ấy ở Nga
như Phekhanov, Marta, Bogdanov, Asebra (?). Các đảng xã hội dân chủ Tây Âu cũng
phản đối nguyên tắc này. Cuộc tranh luận kéo dài suốt thế kỷ 20 và tiếp tục đến
tận bây giờ
Chúng ta xem, nhìn lại việc đưa
nguyên tắc ấy vào cuộc sống bắt đầu từ Stalin. Ông này đã nhân danh nguyên tắc
tập trung dân chủ để thực hiện chế dộ cực quyền cá nhân và chế dộ này đã để lại
những hâụ quả tai hại mà mọi người đã biết. Và phong trào cộng sản quốc tế đã
xuất hiện những nhân vật khét tiếng tàn bạo: Stalin, Mao Trạch Đông, Kim Nhật
thành, Cheochetxcu.
Thể thức đưa ra các quyêt định rất
tuỳ tiện. Những quyết định trên danh nghĩa đều được thông qua thảo luận của các
cơ quan lãnh đạo. Song tiếng nói cuối cùng vẫn là của nhân vật đứng đầu, người
chuẩn bị các quyêt định đó thông qua một nhóm nhỏ những người biên tập, không
phải là những chuyên gia giỏi. Nhiều quyết định có quan hệ đến vận mệnh, tiền
đồ đất nước được đề xuất và tất nhiên được chấp nhận theo tuỳ hứng, như bãi bỏ
chính sách kinh tế mới, chuyển sang thực hiện năm năm với hai nhiệm vụ trung
tâm công nghiệp hoá và tập thế hoá nông nghiêp, sau khi thực hiện những nhiệm
vụ của kế hoạch thứ nhất, tiếp theo kế hoạch thứ hai, rồi năm 1936, tuyên bố
xây dựng xong chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô.
Từ giận dữ, Stalin mở chiến dịch
chống hữu khuynh, tả khuynh, thanh trừng nội bộ. Những nhân vật nói trên không
bao giờ chấp nhận ý kiến người khác, chỉ thích nghe những lời tâng bốc ngọt
nào, có quyền phê bình người khác, ai dám can Stalin ?
Cũng từ giận dữ, Mao phát động chiến
dịch đánh đổ Lưu, Đặng, xoá bỏ đường lối do Đại hội lần thứ VIII thông qua, đưa
ra đường lối Ba ngọn cờ hồng, phát động Đại cách mạng văn hoá, loại bỏ tất cả,
ai dám can Mao?
Không khí sinh hoạt trong đảng lãnh
đạo mà trong xã hội các nước xã hội chủ nghĩa thật là buồn tẻ, mặc dù hội họp,
lễ hội hầu như diễn ra quanh năm, các cuộc vận động không ngừng được mở rộng.
Buồn tẻ vì người ta không có quyền nói về cuộc sống vất vả, thiếu thốn. Mọi
việc đều được sắp xếp từ bên trên, ăn gì, mặc gì, con người không có quyền chủ
động như Nguyễn Tuân nói: bắt cởi trần phải cởi trần! Cho may ô mới được
phần may ô, mà xã hội chủ nghĩa (XHCN) là Xếp Hàng Cả Ngày.
Nói rằng, trong xã hội thường xuyên
có sự nhất trí về chính trị và tư tưởng là không đúng sự thật, sự im lặng kéo
dài, cuối cùng bỏ mặc cho chủ nghĩa xã hội tan rã, người ta bỏ phiếu bằng đôi
chân lũ lượt chạy sang các nước tư bản để làm những việc thấp kém, có khi mât
cả phẩm gia con người để kiếm sống.
Một tiềm năng cực kỳ to lớn của đất
nước bị lãng phí sức lao động và trí tuệ của con người. Nếu là một đảng dân
chủ, người được mở miệng ra thì nhiều sai lầm có thể tranh, nhiều thử thách có thể
vượt qua.
Tư duy của những người lãnh đạo đã
nắm được quyền lực, cố bám giữ bằng mọi cách, thi hành chính sách ngu dân, giữ
nếp cũ, quay mặt đi trước những ý kiến xây dựng chân thành, đàn áp không thương
tiếc những ai dám có ý kiến phê bình.
Nhiều nhà cách mạng biết khi đấu
tranh gian khổ chống chế độ bât công thì anh dũng, anh hùng, gắn bó với nhân
dân. Sau khi đã trở thành người lãnh đạo Nhà nước, tâm lý họ thay đổi rất
nhanh, chuyển sang chăm lo giữ lấy quyền lực, tranh chấp với ai có thể thách
thức họ. Tinh thần cách mạng sa sút như quả bóng xì hơi. Họ trở nên bảo thủ, cự
tuyệt thay đổi vì sợ tạo thành rối loạn. Người muốn là nhà cách mạng tiên phong
phải có lý luận tiên phong, những người nắm quyền lực, tư duy bảo thủ thì không
muốn khám phá cái mới, cho nên họ muốn yên ổn, song đời sống lại không ngừng
biến đổi, do đó mâu thuẫn phát sinh, phát triển làm cho mất sức. Họ đã không
muốn tìm tòi, lại sợ người khác tìm tòi để đi xa hơn mình, vì vậy phải ngăn
cản, giữ độc quyền chân lý mà họ đã nói, đã viết. Có người lãnh đạo bằng diễn
văn, bài báo, tuyển tập.
Lý luận phát triển, chưa phát triển
làm thế nào mà tổ chức phát triển. Tiêu chuẩn và những nguyên tắc sinh hoạt
đảng do Lênin nêu lên từ năm 1903 vẫn coi là không thể thay đổi, không có gì
phải bổ sung. Chính Lênin đã nói về Đảng tiên phong của toàn xã hội. Khi chủ
quyền đã thuộc về nhân dân thì đảng phải là đội ngũ tinh hoa của toàn dân tộc,
tinh hoa cẩ về trí tuệ lẫn đạo đức. Người ta vẫn nói như ngày nảo, ngày nào.
Dân chủ là một động lực to lớn, thế mà họ chỉ chăm lo tập trung quyền hành.
Những bài học nói trên, chỉ là những
bài quan trong hàng đầu, rút ra từ hoạt động thực tiễn ở hai đảng lớn, nước
lớn. Các nước khác cũng có những bài học cần được tổng kết. Nếu phát hiện đúng
bản chất chủ nghĩa Marx thì có thể thấy rõ con đường, điều chỉnh, bổ sung, đưa
nó lên một tầm cao mới trong thời đại mới, phát huy sức sống của nó.
Nhiều học thuyết xã hội lần lượt ra
đời trong thế kỷ thứ 20, nhưng chưa có học thuyêt nào hơn hẳn học thuyết Marx.
Khoa học xã hội và nhân văn, lý luận
cải tạo xã hội rõ ràng bị tụt hậu so với khoa học tự nhiên, khoa học công nghệ.
Nhiều vấn đề lớn của thời đại mới chưa được lý giải như nền kinh tế mới, cuộc
cách mạng khoa học hiện tại sẽ đưa loài người đến đâu, trước mắt, mặt tiêu cực
của nó đang nổi bật, chiến tranh hiện đại và cuộc chạy đua giành quyền bắ chủ
toàn cầu.
Phần thứ tư
Công Và Tội Của Chủ Nghĩa Tư Bản
Các chế độ xã hội lần lượt ra đời
đánh dấu những nấc thang của lịch sử tiến hoá nhân loại.
Cũng như hai chế độ trước nó, chế độ
phong kiến và chế độ chiếm hữu nô lệ, nó đều có hai mặt, mặt tiến bộ và mặt tàn
ác. So với hai chế độ ra đời trước nó thì nó có sức xây dựng, phát triển phi
thường, đồng thời sức tàn phá cực kỳ dữ dội. Nói khách quan nó có công lớn đưa
xã hội tiên lên về mọi mặt, mặc dù phải trả một cái giá rất cao. Lịch sử từ
trước đến nay là như thế. Phải nhận định nó theo quan điểm lịch sử, nghĩa là
quan điểm tiến hoá.
Nền kinh tế và xã hội tư bản chủ
nghĩa ra đời trên cơ sở nền kỹ thuật công nghiệp cơ khí, lịch sử khi hoàn thiện
cái máy hơi nước đầu tiên, năm 1785 thì mới 300 năm. Của cải do nó làm ra so
với trước đó, kỹ thuật thủ công kéo dài 3.000 năm, Kỹ thuật đồng sắt thì có thể
so sánh Tam Đảo vủa ta với Hymalaya của Ân Độ, sông Hồng với hai sông Missisipi,
Amazon. Sự phát triển kinh tế nhanh như vậy là vì sáng tạo kỹ thuật sản xuất
mới. Các nước tư bản chủ nghĩa liên tục từ thế kỳ thứ 18 đến nay, đã thực hiện
được cuộc cách mạng khoa học thực nghiệm, cuộc cách mạng khoa học cơ bản lần
thứ nhất và lần thứ hai đưa năng xuất lao động nói chung của nhân loại lên hàng
trăm, hàng nghìn lần, tuỳ theo loại sản phẩm.
Lao động sản xuất là nền tảng tồn
tại của loài người, kỹ thuật là nhân tố quyết định sự phát triển kinh tế, xã
hội, văn hoá, lối sống. Chủ nghĩa tư bản phát sinh, phát triển từ Tây Âu sang
Bắc Mỹ rồi lan rộng ra. Tổ chức được lần lượt hai cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật, làm thay đổi hẳn bộ mặt của xã hội loài người (nhà Tư bản không phải là
nhà khoa học song nó là người đưa thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất).
Công lao to lớn của nó phải được khẳng định.
Đi liền với hai cuộc cách mạng khoa
học kỹ thuật, tức là cách mạng sức sản xuất, từ chế độ phong kiến chuyển đổi
bằng nhiều cách khác nhau, sang xã hội tư bản với nền dân chủ tư sản. Thể chế
chính trị tư sản so với thể chế phong kiến thì tiến bộ hơn rất nhiều, xã hội tư
bản là môi trường và do nhu cầu phát triển nhanh giáo dục, văn hoá, văn học,
nghệ thuật, đào tạo được đội ngũ nhân tài, bác học đông đảo. Sự phát triển kỳ
diệu của loài người trong sự nghiệp tìm hiểu giới tự nhiên và sử dụng nó là đội
ngũ tinh hoa này. Đi sâu vào thế giới vĩ mô và vi mô. Tầm mắt con người đã đi
xa tới những thiên hà cách quả đất hàng tỉ tỉ năm theo tốc độ ánh sáng và phát
hiện cấu trúc và sự vận động của hệ thống tế bào con người và cả loài vật, sáng
tạo những giống mới, vật liệu mới.
Giai cấp tư bản quốc tế, chủ yếu là
của những nước công nghiệp lớn, tư bản nói chung là giai cấp giết nhiều người
nhất nhưng lại là giai cấp có bản năng tự vệ, sức kháng cự và vươn lên cực kỳ
lớn. Nó lần lượt vượt qua mọi cuộc khủng hoảng kinh tê lớn nhỏ và phải thường
xuyên đối đầu với sự chống đối các giai cấp bị nó áp bức, bóc lột, mà vẫn tồn
tại và vươn lên. Nó biêt cách cùng tồn tại với các đối thủ. Cạnh tranh càng gay
gắt, nó càng vươn lên, tồn tại trong cạnh tranh.
Gây ra nhiều cuộc chiến tranh, bị
tàn phá rất nặng nhưng lại khôi phục rất nhanh. Mất hết thuộc địa, rút về chính
quốc, nó lại vươn lên, đi vào quá trình hội nhập toàn cầu hoá đó. Cuộc cách
mạng khoa học công nghệ đòi hỏi, nó lại tạo ra môi trường dể phát triển ra khẵp
thế giới.
Chủ nghĩa tư bản có công lớn, đồng
thời có tội lớn.
Đó là thân Suy Vưu (?), trong năm
thế kỷ vừa qua tàn sát nhiều triệu sinh mạng con người, phá hoại kinh tế, tài
nguyên, môi trường sống của con người. Bộ mặt của nó rất kinh khủng. Nó đã huỷ
diệt hàng trăm hàng nghìn người trong một nháy mắt.
Nó là kẻ uống máu người, hằng ngày
hút máu những người lao động làm thuê ở những dân tộc lạc hậu về kinh tế. So
với hai chế độ trước thì chủ nghĩa tư bản bóc lột người lao động gấp hàng
nghìn, hàng triệu lần.
Những tai hoa toàn cầu ngày nay do
chủ nghĩa tư bản gây ra.
Các nhà tư tưởng của chủ nghĩa tư
bản khăng khăng biện hộ chủ nghĩa tư bản mà họ cho rằng là một chế độ xã hội
hoàn thiện nhất, mà loài người đã đạt tới. Nó sẽ tồn tại vĩnh viễn vì đã, và sẽ
không có chế độ nào hơn.
Không phải, còn xa, chủ nghĩa tư bản
nhiều bệnh hoạn hơn chủ nghĩa phong kiến rất nhiều. Cũng như các chế độ trước
với chủ nghĩa tư bản sẽ phải ra đi khi con đường phải đến sẽ đến. Chủ nghĩa
phong kiến sinh ra những lực lượng phủ định nó. Cuộc cách mạng khoa học công
nghệ hiện đại đang chuẩn bị một xã hội thay thế xã hội tư bản. Có người nói
giản đơn rằng: chủ nghĩa tư bản sẽ tiêu vong vì nó béo quá.
Phần thứ năm
Thời Kỳ Quá Độ Giữa Hai Nền Văn Minh
Dự báo trước đây về thời ký quá độ
từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới bắt đầu từ thắng
lợi của Cách mạng tháng Mười Nga không được thực tế chứng minh. Các nước tư bản
chủ nghĩa, tiếp tục cuộc hành trình của nó, vượt qua sự tàn phá ghê gớm của
cuộc chiến tranh thế giới thứ hai và đẩy lùi khỏi hệ thống thuộc địa, chúng rút
về chỗ cũ, tiến hành cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ hai. Mấy nước tư
bản phát triển nhất chiếm 80% của cải của nhân loại. Riêng nước Mỹ một năm sản
xuất được 50.000.... chiếm 1/5 của cải toàn cầu.
Giai cấp công nhân các nước tư bản
chủ nghĩa, cũng tiếp tục đi theo con đường tiến hoá và phát triển với kỹ thuật
sản xuất mới, trở thành công nhân sơ mi trắng thắt cravate. Cả hai giai cấp đều
biến đổi trong qúa trình cách mạng khoa học kỹ thuật. Lịch sử đi theo con đường
phát triển tự nhiên của nó, cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật lần thứ nhất,
thay thế nền văn minh nông nghiệp, thủ công, mở ra nền văn minh công nghiệp.
Nền văn minh này rực rỡ đưa lại những thành tựu cực kỳ lớn, làm thay đổi hẳn bộ
mặt của toàn thế giới mặc dù nó cũng dẫn tới những tai hoạ khủng khiếp trong xã
hội loài người. Nó chuẩn bị cho sự bùng nổ của cuộc cách mạng khoa học, công
nghệ hiện đại, gây tác động đến toàn bộ cuộc sống của toàn nhân loại. Tât cả
các ngành khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật đều trở thành sức sản xuất trực
tiếp: vật lý, hoa học, sinh học, toán học, công nghệ mới. Khoa học kinh tế, văn
hoá, chính trị cũng đạt dược nhiều thành tựu vực dậy sản xuất, văn hoá, đời
sống con người. Sự bùng nổ như một phản ứng dây chuyền của khoa học, công nghệ
làm cho con người bỡ ngỡ nhận thức không kịp như những thành tựu của cách mạng
tin học, dẫn đến những đảo lộn lớn theo hướng tiến bộ, sự hình thành mạng lưới
thông tin toàn cầu, mở ra một bước ngoặt lớn trong đời sống của toàn nhân loại.
Một vấn đề đã đặt ra chưa thể lý giải được, đó là nó sẽ đưa loài người đến đâu?
Nó phục vụ cuộc sống con người thật là kỳ diệu. Nó cũng bị biến thành phương
tiện chiến tranh huỷ diệt - chiến tranh thông tin như ở Irắc.
Nhiều cuộc cách mạng của nhân dân nổ
ra và thắng lợi ở mấy chục nước Âu, A, Latinh, Caribê là nhứng nước, về cơ bản
là nông nghiệp. Vì đi theo con đường không phù hợp với quy luật tự nhiên, đi
tắt, xoá bỏ ngay lập tức các hình thức sở hữu tư nhân và tư liệu sản xuất,
thiết lập chế độ công hữu triệt để trong điều kiện kỹ thuật sản xuât lạc hậu,
sức sản xuất thấp và nền kinh tế cơ bản vẫn là sự tự cấp tự túc, xây dựng thẳng
đến chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa không tưởng mới, không thể đưa đến thành
công.
Người ta nói rằng: muốn nhanh không
được, phải tuân thủ những quy luật khách quan. Thởi kỳ quá độ đang diễn ra từ
nền văn minh công nghiệp sang nền văn minh trí tuệ, từ kinh tế công nghệ sang
kinh tế trí thức. Sự quá độ này mở đầu một giai đoạn lớn, cuộc biến đổi lớn từ
lao động cơ bắp, cơ bắp kéo dài bằng máy sang lao động trí tuệ. Những sản phẩm
của nền kinh tế mới có hàm lượng trí tuệ cao, lao động trí tuệ trở thành lao
động chủ yếu trong hoạt động của con người. Từ khi xuất hiện đến nay con người
phụ thuộc vào thiên nhiên; lần thứ nhất, kiếm sống bằng săn bắn, hái lượm những
sản phẩm của tự nhiên. Lần thứ hai sử dụng công cụ, các maý làm ra của cải,
song vẫn bị giới tự nhiên chi phối. Trong cả hai lần con người vẫn bị con người
tha hoá về sự phân công lao động, phân phối của cải bất công, con người tha hoá
con người, mạnh áp bức bóc lột yếu, con người bị tha hoá. Tiến đến trình độ
phát triển cao, con người nhận thức được bản chất và quy luật vận động của giới
tự nhiên và sự khống chế cải tạo nó phục vụ cuộc sống của mình. Tức là làm chủ
giới tự nhiên. Nhờ trình độ nhận thức, trình độ văn hoá, con người nhận thức và
cải tạo được xã hội. Khắc phục những mặt chưa hoàn thiện, xây dựng một xã hội
hài hoà, một cuộc sống văn minh. Như vậy là dựa trên một nền sản xuất bằng trí
tuệ là chủ yếu, con người mới có tự do chân chính. Một xã hội tự do không thể
hình thành trên cơ sở một nền sản xuất, một nền văn hoá lạc hậu. Người ta sáng
tạo ra các sản phẩm vật chất và văn hoá về cuộc sống và sự tiến hoá của mình,
song không thể tuỳ tiện áp đặt chế độ xã hội. Nếu một thể chế chính trị xã hội
có thể ra đời sớm thì cuộc cách mạng phải biến nó làm động lực của cuộc cách
mạng sức sản xuất, khoa học và kỹ thuật, văn hoá, giải phóng tư tưởng, đào tạo
con người.
Khoa học, kỹ thuật là đầu tầu của
phát triển kinh tế, xã hội. Bản thảo khoa học, kỹ thuật là sản phẩm do con
người sáng tạo. Không thể sử dụng bạo lực nâng cao được sự hiểu biêt của con
người.
Thời kỳ quá độ này chắc chắn là
nhanh hơn và lớn hơn lần trước như ta đã thấy trong những năm chuyển tiếp hai
thế kỷ thứ 20 và 21.
Cuộc cách mạng công nghiệp phải mất
200 năm mới mở rộng ra bẩy nước (nay cộng thêm nước Nga); Mỹ, Anh, Đức, Pháp,
Nhật Bản, Italia, Canada. Và trên toàn thế giới các nước công nghiệp hoá lớn
nhỏ mới có khoảng 20, nghĩa là 1/10 của 200 nước.
Cuộc cách mạng điện tử bắt đầu từ
những năm 1980 đến nay đã mở rộng ra gấp hai ba lần cuộc cách mạng công nghiệp.
Hai nước đông dân nhất châu Á: Trung Quốc và Ấn Độ đang đẩy nhanh sự phát tiển
công nghiệp điện tử và các ngành khoa học, công nghiệp hiện đại khác. Chẳng
những châu Âu, Bắc Mỹ mà cả châu A, châu Đại Dương, châu Phi, châu Mỹ đều đi
vào cách mạng khoa học công nghệ, tuy nhịp độ và sự chênh lệch khác nhau.
Mọi cuộc cách mạng kỹ thuật đều dẫn
đến sự phân công lực lương lao động xã hội từ những cộng đồng thế nào, đến khu
vực, cả nước và mở rộng ra ngoài lãnh thổ dân tộc. Lịch sử nhân loại đã trải
qua phân công lao động giữa trồng trọt và chăn nuôi, giữa nông nghiệp và công
nghiêp, giữa nông thôn và thành thị, ngày nay, khu vực công nghệ phát triển hơn
cả khu vực thứ nhất và khu vực thứ hai. Quá trình toàn cầu hoá là sự phân công
lại lớn nhất, tuỳ theo những điều kiện cụ thể về tài nguyên, khí hậu, nhân lực
có thể hình thành những khu vực kinh tế khác nhau thuận tiện đối với hoạt động
sản xuất và đời sống của nhân dân. Cả thế giới hình thành một nền sản xuất, một
thị trường với một cơ cấu giao thông vận tải hợp lý, sử dụng rộng rãi mạng lưới
thông tin điện tử, nền sản xuất ấy có hiệu quả cao nhât, chi phí rẻ nhất, tài
nguyên thiên nhiên được tiết kiệm tốt nhât.
Sự chuyển đổi thế hệ chính trị, kinh
tế sẽ rất linh hoạt với nhiều hình thức, tự nó chuyển đổi, cái cũ giảm dần, cái
mới phát triển dần, cái gì hợp lý thì được bảo tồn trong cái mới, cái gì không
phù hợp sẽ tự mất đi hoặc phải qua sự can thiệp trực tiếp của con người.
Quy luật vận động chung của lịch sử
là tự thân vận động, đi đôi với tác động của con người, tác động vào thay đổi
kỹ thuật, trí thức là cơ bản, quyêt định tác động trực tiếp bằng hành động trực
tiếp là cần thiết thì bắt buộc phải sử dụng, nó không phải là hình thức can
thiệp thường xuyên.
Làm chủ thiên nhiên là tiền đề của
làm chủ xã hội, làm chủ bản thân và con người. Khi đời sống con người còn bị
thiên nhiên chi phối thì đời sống của mình chưa khác vạn vật bao nhiêu. Cuộc
cách mạng trí tuệ này nâng cao tầm vóc con người, sống hiên ngang giữa mọi biến
động, biến dổi của giới tự nhiên, khống chế những tác hại của nó, sử dụng tất
cả những gì có lợi của nó để nâng cao cuộc sống, giảm tai hoạ, khai thác sức
gió, bức xạ mặt trời qua con đường của khoa học làm ra nhiều của cải, sáng tạo
những cái mới.
Đã làm chủ thiên nhiên, thoả mãn
ngày càng tốt hơn nhu cầu đời sống sinh vật, con người được giải phóng vươn lên
làm chủ tốt hơn, sáng tạo nhiều hơn.
Làm chủ thiên nhiên, làm chủ xã hội,
con người làm chủ bản thân và tôn trọng quyền làm chủ của mọi thành viên trong
cộng đồng nhỏ và lớn. Mọi người đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ trước
luật lệ và chân lý, ai cũng có cơ hội được làm việc theo ý muốn, lựa chọn lĩnh
vực hoạt động, thực hiện mơ ước của mình. Tranh giành chém giết, tranh ăn, mạnh
ức hiếp yếu, giàu bắt nạt nghèo tự nó mất đi.
Chế độ tự quản, tự nó là một nhu cầu
người ta tự lựa chọn người mà mình đã đào tạo để giao việc, kiểm soát chúng và
tự mình tham gia quản lý.
Người ta vẫn có một điều băn khoăn
lớn là con người, cộng đồng con người, có thể tiến tới chỗ thoả mãn mọi nhu cầu
đời sống sinh hoạt của con người hay không? Với những thành tựu khoa học đã đạt
được, có thể trả lời khẳng định rằng, có thể thoả mãn nhu cầu ăn, mặc, ở, đi
lại, bảo vệ sức khoẻ, học, hưởng thụ thành tựu văn hoá. Lại có người nói: Nhân
dục vô nhai (lòng ham muốn của con người không có giới hạn). Có thể trả lời là
có hạn. Dạ dày không phải là cái túi không đáy. Người no tư duy khác người đói.
Người ta có thể cùng một lúc mặc 10 bộ quần áo. sinh học, hoá học sẽ còn tiến
xa, không có giới hạn. Con người sẽ được ăn tốt, mặc tốt, ở tốt, đi lại thuận
tiện và nhanh chóng, mạng lưới thông tin sẽ giảm nhẹ ít nhiều gánh nặng về việc
đi lại trao đổi.
Những vấn đề nói trên, đối với tầm
vóc con người hiện đại, không còn là viễn tưởng, mà có thể vươn tới.
Người ta lại hỏi chế độ xã hội hiện
tồn có thể kéo dài cuộc sống bao lâu nữa, nó sẽ triển vọng như các chế độ đã
qua trong lịch sử ?
Trước tiên cần phải quả quyết rằng,
cuộc sống không ngừng vận động, biến đổi, mọi hiện tượng đều là tạm thời, mỗi
hiện tượng đều như mây bay, nước chảy, có sinh thành và tiêu vong giống như
người sáng lập đạo Phật nói về đời người phải trải qua sinh, lão, bênh, tử. Tần
Thuỷ Hoàng cho rằng mình không chết vì đã có thuốc trường sinh, ông bị bạo bệnh
và chết lúc chưa được 60 tuổi.
Marx, Engels, Lênin dự báo quá lạc
quan về vận mệnh của chủ nghĩa tư bản, các vị đều cho rằng nó sẽ từ giã vũ đài
lịch sử trong thế kỷ thứ 19 và thứ 20. Nhưng nó vẫn sống, đến thế kỷ 21, đã già
và lắm bệnh tật, chưa bao giờ xã hội lại nhiều bệnh hoạn như bây giờ, nghĩa là
xã hội tư bản chủ nghĩa đã già nua, thối nát. Nó đã ở buổi hoàng hôn, tự gần
đến cõi chết. Chết như thế nào, bao giờ chêt. Hổi sau sẽ rõ. Thế biết rằng nó
ít phải chết vì nền khoa học kỹ thuật này không thể bị trói chặt trong phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Các nước cách mạng nổ ra và thắng
lợi trong thế kỷ thứ 20 từ bên trên, sự quá độ của hai nền văn minh là từ bên
dưới.
Sở hữu trí tuệ là hình thức sở hữu
đang lớn lên. Nền sản xuất hiện đại, nền kinh tế trí thức không cần những xí
nghiệp không lồ với vốn đầu tư hàng chục tỷ USD. Hình thức hợp tác giữa các nhà
khoa học và nghiên cứu là tổ chức sản xuất. Khu vực thứ ba ngày càng mở rộng sử
dụng internet không cần nhiều người, một cửa hàng siêu thị chỉ cần vài ba người
trông nom. Một người có thể quản lý một xí nghiệp, một cửa hàng lớn. Người ta
học tập, truy cập internet tại nhà. Nhà tư bản không có chỗ đứng trong xã hội
mới.
Việc phải đến sẽ đến.
Chủ nghĩa tư bản phát triển đến hạn
ắt phải ra đi, tiếc mà không được. Di sản của nó để lại cho đời là cực kỳ to
lớn.
Thời kỳ quá độ của hai nền văn minh
do công nghệ sản xuất là bản chất không có sức mạnh nào đẩy lùi được. Lần quá
độ này, không hề đơn giản vì thế lực đại biểu cho chế độ cũ khá mạnh. Không thể
tránh khỏi giẫy giụa tuyệt vọng. Mặt tích cực, ưu thế ngày càng tăng là loài
người đã trưởng thành về chính trị, trước hết ở các nước đã đi sâu vào cách
mạng khoa học công nghệ, cách mạng thông tin giữ vai trò phủ định chế dộ tư bản
ngày càng lớn. Giai cấp tư bản hiện đại tập trung vào những tổ hợp xuyên quốc
gia về công nghệ, năng lượng, vận tải, tài chính, tín dụng, giai cấp trung lưu
là giai cấp đông nhất trong xã hội tư bản.
Đại biểu tập trung của xã hội hiện
tại là đội quân các nhà bác học, giới trí tuệ. Lớp người này sẽ đi đầu trong
quá trình chuyển tiếp giữa các nền văn minh, là nhân vật trọng tâm của xã hội
trung lưu.
Loài người đi từ đôi chân đang
chuyển sang đi bằng cái đầu, bộ óc, con tim. Con người tách hẳn với giới sinh
vật để sống cuộc đời hoàn toàn của con người.
Vai trò của giới trí thức
1-
Xác định và kiên trì con đường đúng là vấn đề đầu tiên, nhân tố thắng lợi cơ
bản của cách mạng. Trong thế kỷ thứ 20, dân tộc ta đã qua nhiều cuộc khảo
nghiệm về con đường cách mạng.
Loại khảo nghiệm thứ nhất là con
đường giải phóng dân tộc của các tổ chức khác nhau: Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa
Thám đi cùng một con đường khôi phục nền độc lập dân tộc, khôi phục cả chế độ
vua quan. Quốc dân Đảng đi theo con đường của Trung Hoa Quốc dân Đảng. Con
đường của Đảng cộng sản do Hồ Chí Minh xác định là sự kết hợp con đường cứu
nước truyền thống với con đường cách mạng giải phóng xã hội phù hợp với tình
hình nước ta.
Loại khảo nghiệm thứ hai diễn ra
phức tạp và phải chịu tổn thất do sự can thiệp của nước ngoài mà ta cần phải
tranh thủ làm chỗ dựa của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc.
Lần thứ nhất nhân danh Quốc tế cộng
sản, Stalin phê phán con đường của Nguyễn Ai Quốc là dân tộc chủ nghĩa cải
lương, hữu khuynh, buộc phải chấp nhận cương lĩnh cách mạng công, nông, đổng
thời đánh đổ đế quốc, phong kiến, thực hành con đường đó, lực lượng của ta bị
thu hẹp giữa lúc tinh thần yêu nước đang lên cao kể từ năm 1929, đặc biệt trong
giới trí thức, thanh niên và một bộ phận tư sản, địa chủ. Giai cấp công nhân và
giai cấp tư sản dân tộc chưa thật sự hình thành.
Do tả khuynh, khi bị kẻ thù đàn áp,
không tự sức chống đỡ, tổn thất nặng nề.
Từ năm 1936 trở đi, ta giành lại
quyền chủ động. Năm 1941, ta phát triển đường cách mạng trong tình hình mới,
thành con đường cách mạng giải phóng dân tộc, giương cao ngọn cờ yêu nước, tập
hợp mọi lực lượng yêu nước và dân chủ, chuẩn bị lực lượng, khi thời cơ đến,
tổng khởi nghĩa, đánh đổ chính quyền thực dân, phong kiến, thiết lập Nhà nước
Cộng hoà Dân chủ của nhân dân, chuẩn bị cuộc kháng chiến chống Pháp phát động
cuộc chién tranh xâm lược lần thứ hai. Ta thực hiện được một cuộc kháng chiến
toàn dân, toàn diện.
Năm 1950 Liên Xô và Trung Quốc buộc
ta trở lại cương lĩnh cách mạng công nông, thực hành cách mạng ruộng đất bằng
bạo lưc, chọn lọc tổ chức đảng, hệ thống chỉ huy quân đội và bộ máy Nhà nước.
Bao vây kinh tế, chuẩn bị xoá bỏ các hình thức kinh tế tư nhân bằng chính thuế
(?).
Chiến dịch thanh trừng nội bộ, cải
cách ruộng đất gây nên những tổn thất to lớn về lực lượng, chính trị và kinh
tế. Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, trên một triệu người ở miền
Bắc chạy vào Nam. (Sau cuộc kháng chiến chống Mỹ, hai triệu người bỏ nước chay
đi nước ngoài do chủ nghĩa tả khuynh của ta).
Sau lần tả khuynh dẫn đến cuộc khùng
hoảng kinh tê-xã hội 1975-1985, buộc ta phải đổi mới con đường phát triền của
nước ta. Công cuộc đổi mới của ta bắt đầu từ năm 1986, về thực chất là do đi
trệch đường mà phải trở lại con đường cũ đã đựơc nêu ra 1929, 1941, 1945,
khuyến khích phát triển công thương nghiệp dân tộc, mở rộng giao lưu kinh tế
với nước ngoài, mở rộng kinh tế thị trường, thực hiện quyền tự chủ trong sản
xuât kinh doanh của các chủ thể kinh tế, Nhà nước chỉ quản lý về mặt hành
chính, chỉ đạo vĩ mô, đưa ra chiến lược phát triển đất nước.
Như vậy là ta đã hai lần mất quyền
chủ động về đường lối và hai lần giành lại được. Công cuộc cách mạng trước đây,
cũng như hiện nay, ta nắm vứng quyền chủ động thì cách mạng thắng to.
Những bài học quý báu nói trên nhắc
nhở chúng ta, rằng phải biết tham khảo kinh nghiêm nước ngoài, nhưng phải nắm
chắc tinh thần độc lập, tự chủ, chớ làm theo nước khác một cách máy móc. Chân
lý bao giờ cũng cụ thể, cách mạng là sáng tạo.
Ta đã hội nhập đời sống quốc tế về
nhiều lĩnh vực, tư duy đã đổi mới song vẫn còn nhiều hiện tượng ngập ngừng, vẫn
còn vương vất không ít mầu sắc tư duy đã lỗi htời. Đi vào thời đại mới, muốn
đuổi kịp người ta, phải có tư duy mới, tư tưởng mới, phong cách mới.
Toàn cầu hoá là một bước ngoặt rất
lớn trong đời sống nhân dân. Không có bất cứ thế lực nào kéo lùi được bánh xe
lịch sử, mặc dù mặt tiêu cực của nó ghê gớm như cuộc chạy đua giữa các cường
quốc tranh nhau chỗ đứng dưới mặt trời, nước giàu muốn nuốt nước nghèo trong
quan hệ kinh tế. Hội nhập có lợi lớn đối với phát triển vì nó mở rộng thị
trường cho cả giàu lẫn nghèo, phân công lại lao động toàn cầu, chuyển giao công
nghê, giao lưu văn hoá, kinh nghiệm kinh doanh trong thời đại thông tin.
2-
Lựa chọn con đường càng ngắn càng tốt là điều kiện để nhanh chóng vượt lên phía
trước, khắc phục càng nhanh càng tốt khoảng cách khá xa với các nước tiên tiến.
Bao giờ trí tuệ cũng là nhân tố tiến bộ hàng đầu. Đẽo đá là bước tiến đầu tiên
của con người cũng là sản phẩm của trí tuệ. Trong thhời đại điện tử, nền văn
minh trí tuệ, muốn tiến nhanh phải có trí tuệ tương ứng. Đối với dân tộc ta,
vận mệnh, tiền đồ đều do trí tuệ quyết định. Vì vây, tiền đề của phát triển là
tạo ra một xã hội trí tuệ, một đội ngũ trí tuệ đông đảo. Các nước đi trước nước
ta trong ba thế kỷ vừa qua hơn ta về trí tuệ. Trí tuệ đưa đến cuộc phục hưng,
thế kỷ ánh sáng. Hai cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuất nhiều nước châu Â, châu
Phi dẫm chân tại chỗ vì trình độ văn hoá, giáo dục thấp kém.
Nền giáo dục và đào tạo nhân tài của
ta phải hình thành đồng bộ đội ngũ trí thức, các nhà khoa học, kỹ thuật, quản
lý, kinh doanh, hành chính và dội ngũ những người lao động giỏi, nhằm đáp ứng
nhu cầu ngày càng nhiều của chiến lược phát triển kinh tế.
Nền kinh tế của ta phải là nền kinh
tế đa dạng của nhiều hình thức sở hữu, nhiều hình thức kinh tế, không cố định
lâu dài xuất phát từ hiệu quả kinh tế. Cạnh tranh và hợp tác bình đẳng.
Nền kinh tế của ta là nền kinh tế
hàng hoá - thị trường. Nó phải phục tùng những quy luật vận động chung của nền
kinh tế ấy khi đã hội nhập nền kinh tế toàn cầu và hoạt động kinh tế của nước
ngoài trên đât nước, của nước ta trên đất nước ngoài. Sự khác nhau là tất cả
các hoạt động của kinh tế trên đất nước ta đều phải tuân theo pháp luật và làm
nghĩa vụ. Mọi hoạt động kinh tế đều phải đóng thuế, nguồn thu chủ yếu của ngân
sách Nhà nước.
3-
Nền kinh tế của ta phải là nền kinh tế có hiệu quả cao, bằng cách tập trung sức
lực hình thành những ngành kinh tế mà ta có thế mạnh về nguyên liệu, khí hậu,
nhân lực. Tất cả đều dựâ trên những công nghệ mới nhất. Trong điều kiện cuộc
cách mạng công nghệ trên thế giới đang bùng nổ, không nên xây dựng những cơ sở
quá lớn, xây dựng lâu, khi đi vào khai thác thì kỹ thuật đã lạc hậu.
Nhiều ngành ta tự xây dựng bằng tiền
vốn của mình và cũng nhiều ngành vẫn kêu gọi nguồn vốn nước ngoài khai thác như
khoáng sản, năng lượng. Hiện tượng chạy đua xây dựng nền công nghệ điện tử, tin
học làm cho nền kinh tế mới nhanh chóng bị bão hoà. Song không vì vậy mà ta
không đi vào xây dựng có chọn lọc nền kỹ thuật này.
Công nghệ sinh học, hoa học, năng
lượng là những ngành mà ta có ưu thế như nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp,
nhiệt đới, dược liệu thảo mộc, hương liệu của ta khá dồi dào. Nhiều sản phẩm
không cần đầu tư lớn và nhiều nhân công nhưng thu lợi nhanh, nhiều, cần được
khắc phục.
Một nền kinh tế chỉ có thể phát
triển bền vững là phát triển sản xuất, phải đi liền với phát triển xã hội. Sản
xuất là sự nghiệp của con người vì con người đáp ứng tốt nhu cầu trước mắt,
đồng thời với lâu dài. Hy sinh cái trước mắt mà cái lâu dài cũng không đạt được
vì muốn sản xuất có hiệu quả, người lao động phải tái sản xuât sức lao động cho
hôm nay và cả ngày mai. Người...... chỉ đi đúng cũng không nói, nói chi nâng
cao năng suất lao động (?)
4-
Cùng với việc xây dựng nền kinh tế với ba khu vực trên nền tảng một nền công
nghệ hiện đại, càng phải xác định chiến lược vì con người, đáp ứng từng bước
tốt hơn các nhu cầu ăn uống, nhà ở, mặc, đi lại, chăm sóc sức khoẻ, tức là mâm
cơm, cái nhà hay căn hộ, quần áo, trường học và thầy giáo, bệnh viện và thày
thuốc. Sự tan rã của các nước xã hội có một nguyên nhân quan trọng này. Giấy
khai, danh hiệu, động lực tinh thần cũng cần song không thể biến thành robot.
5-
Văn hoá là động lực của sự phát triển, là sức sản xuất tiềm tàng to lớn của một
xã hội. Một nước trình độ văn hoá thấp, không thể có một nền sản xuất cao vì
con người là chủ thể của nó. Sự phát triển đồng bộ kinh tế và văn hoá là bảo
đảm của phát triển bền vững.
Hưởng thụ văn hoá là nhu cầu của con
người. Nhu cầu ấy không chỉ là hạnh phúc, niềm vui, mà còn là phương tiện nâng
cao tố chất con người, có ý thức trách nhiệm đối với xã hội, phấn đấu trong
hoạt động sáng tạo.
Xuất phát từ con người, tât cả vì
lợi ích con người là phương châm chỉ đạo hoạt động của kinh tế.
Hội nhập nền kinh tế toàn cầu, nghĩa
là ta cũng phải xây dựng nền kinh tế mới, kinh tế trí thức. Muốn trí thức hoá
nền kinh tế, phải có một xã hội trí thức mà nòng cốt là đội ngũ tài năng, tinh
hoa, phải tập hợp trong Đảng cộng sản, Đảng của tinh hoa dân tộc, xã hội.
Đầu tư cho con người là quan trọng
nhât, bảo đảm vững chắc nhất sự phát triển của đất nước. Dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ và văn minh là mục tiêu động lực của cách mạng nước
ta trong thời kỳ trước mắt. Mọi hoạt động xã hội đều nhằm mục tiêu cơ bản ấy.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nền tảng vật chât- kỹ thuật của một xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
Kiên trì thực hiện những nhiệm vụ
của thời kỳ mới, Đảng và Nhà nước ta phải, về mặt tư tưởng, phải đi tiên phong
trong thời kỳ mới, khắc phục những tàn dư tư duy cũ đã bị cuộc sống không chấp
nhận. Hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo phải nhẹ nhàng, không tốn kém, hiệu
quả cao, trong sáng, minh bạch. Đời sống xã hội phải hoạt bát, năng động, hoạt
bát trên cơ sở một nền dân chủ nhân dân, tự do tư tưởng, ngôn luận. Dân chủ về
chính trị đi liền với dân chủ về kinh tế, văn hoá.
Đảng Cộng sản phải là người tiêu
biểu cho trí tuệ của dân tộc và xã hội, về đạo đức và phong cách, tiêu biểu của
đạo đức cách mạng mà ta đang xây dựng.
Tư tưởng Hồ chí Minh mãi mãi chỉ
đường cho các thế hệ chúng ta./.
Hà Nội, 2004
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét