TRẦN
THỊ PHƯƠNG HOA
Bài viết này
trình bày khái quát về chính sách đối ngoại của Ukraina kể từ năm 1991 cho đến
2010. Trong thời gian này đã có một số công trình nghiên cứu về chính sách đối
ngoại an ninh của Ukraina được xuất bản. Có hai thời điểm số lượng đầu sách ra
nhiều nhất là cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000, khi Ukraina đã dần
định hình chính sách đối ngoại và an ninh sau 10 năm cải cách và khẳng định
mình trên trường quốc tế. Thời điểm thứ hai, với số đầu sách ít hơn là vào năm
2005, sau cuộc Cách mạng Cam 2004, được coi là cuộc cách mạng cuối cùng trong
chuỗi các cuộc cách mạng màu sắc trong không gian hậu Xô Viết.
Năm 2010, sau
khi Tổng thống Yanukovich lên nắm quyền, đã lẻ tẻ xuất hiện những bài báo đánh
giá và dự báo về định hướng đối ngoại của Ukraina. Có thể nói, hầu hết những
bình luận về chính sách đối ngoại của Ukraina đều xoay quanh hai đối tác quan
trọng của nước này là EU và Nga. Bản thân Ukraina và nền chính trị của Ukraina
cũng luôn thể hiện những tính toán trong mối quan hệ với hai cường quốc này.
Ngoài ra, quan hệ với Mỹ và NATO cũng là nội dung được đề cập đến. Trong khi
đó, châu Á dường như ít xuất hiện trong các nghiên cứu nêu trên.
Cuốn sách
được coi là công trình đầu tiên trình bày một cách hệ thống và có cơ sở
lý thuyết về chính sách đối ngoại của Ukraina trong 10 năm đầu sau khi tuyên bố
độc lập được xuất bản năm 2002 với tên gọi Chính sách đối ngoại và an
ninh của Ukraina: Quan điểm lý thuyết và so sánh (Ukrainian Foreign
and Security Policy: Theoretical and Comparative Perspectives) của Moroney[1].Đây
là cuốn sách đưa ra nhiều vấn đề, quan điểm đa dạng, thậm chí đối lập nhau về
định hướng chiến lược chính sách đối ngoại và an ninh của Ukraina. Cuốn sách
298 trang này gồm 3 phần, không kể phần Mở đầu và Kết luận. Phần I có tựa đề
“Những hạn chế của chủ nghĩa hiện thực” phân tích những hạn chế của việc nghiên
cứu quan hệ đối ngoại của Ukraina nếu tiếp cận từ chủ nghĩa hiện thực. Những
nghiên cứu theo hướng này thường quá chú trọng đến việc Ukraina đã thất bại
trong xây dựng chính sách đối ngoại dựa trên các nhân tố nội lực. Nhiều
tác giả cho rằng việc tiếp cận tới chính sách đối ngoại của Ukraina từ quan
điểm cấu trúc (constructivism) là khả thi hơn. Roman Wolczuk nhận xét “sẽ
là một câu hỏi ngu ngốc “nước Pháp là gì?”, vậy mà gần đây chỉ thấy người ta
mải miết đi tìm câu trả lời cho câu hỏi “Ukraina là gì?”, “nước Nga là gì”, dẫn
đến những bế tắc về lý thuyết”[2].
Vấn đề thường trực trong đầu óc các nhà hoạch định chính sách đối ngoại của
Ukraina kể từ khi nước này giành độc lập năm 1991 là làm sao khẳng định bản sắc
Ukraina trên trường quốc tế, trong khi bản thân nội bộ Ukraina còn chưa
thống nhất về bản sắc dân tộc của nước này. Phần II của cuốn sách giới thiệu
những vấn đề liên quan đến an ninh của Ukraina, trong đó có yếu tố quân sự. Các
tác giả công nhận rằng Ukraina đã thành công trong việc kế thừa sức mạnh quân
sự có từ thời Liên Xô cũ với vị thế độc lập mới của Ukraina. Tuy nhiên, đề tài
về xây dựng sức mạnh quốc phòng của Ukraina hiện vẫn chưa được nghiên cứu
sâu như nhận định của nhiều tác giả. Phần thứ III của cuốn sách trình bày về
“Những định hướng của chính sách đối ngoại và an ninh Ukraina”, trong đó định
hướng châu Âu vẫn được coi là ưu tiên hàng đầu đối với Ukraina.
Các tác giả đã
dựa trên nhiều lý thuyết quan hệ quốc tế, trong đó chủ yếu thiên về chủ nghĩa
cấu trúc (constructivism) hơn là chủ nghĩa hiện thực (realism). Nhận xét về
chính sách đối ngoại của Ukraina kể từ năm 1991 cho đến nay, một số tác giả cho
rằng “Ukraina tiến hành một chính sách đối ngoại bất ổn định và dễ lung lay.
Kiev chưa đưa ra một cam kết chính thống nào về bất cứ một định hướng ưu tiên
nào”[3].
Trong khi đó, một số khác nhận thấy định hướng chính sách thân phương Tây của
Ukraina lộ rõ. Phân tích của Paul D’Anieri được coi là phù hợp hơn cả “Hiện
nay, tư tưởng nhằm tăng cường hình ảnh dân tộc và động cơ địa chính trị
của Ukraina đều thể hiện trong chính sách đối ngoại của họ: thiết lập quan hệ
với châu Âu, độc lập với Nga nhưng không hoàn toàn cắt đứt với Nga. Theo tôi,
đó là chính sách của Ukraina trong 10 năm qua (1991-2001)”[4].
Trên thực tế, hầu hết các tác giả đều nhận thấy hai khuynh hướng nổi trội trong
chính sách đối ngoại của Ukraina: khẳng định vị thế độc lập tự chủ và định
hướng thân phương Tây nhưng vẫn duy trì quan hệ với Nga.
Nếu cuốn sách
do Moroney làm chủ biên được coi là giới thiệu một cách có hệ thống hơn cả về
chính sách đối ngoại của Ukraina thì trước đó, năm 1999 một loạt các sách đã
xuất bản phân tích quan hệ của Ukraina với Nga, với phương Tây, trong đó
có châu Âu và NATO. Đó là các cuốn “Chấm dứt sự mở rộng NATO: các quốc gia
Baltic, NATO và Ukraina” (Endgame in NATO’s enlargement: the Baltic States,
NATO and Ukraine) của Yaroslav Bilinsky dài 148 trang; “Ukraina và Nga: anh em
kình địch” (Ukraina and Russia: a fraternal rivalry) của Anatol Lieven dài 182
trang và “Ukraina và an ninh châu Âu” (Ukraina and European Security) của David
Albright và Semyen Appatov dài 288 trang. Tất cả những cuốn sách này đều thể
hiện khuynh hướng lưỡng cực trong chính sách đối ngoại của Ukraina: cực EU và
cực Nga. Bản thân các tác giả cũng tự chia thành hai nhóm: nhóm ủng hộ cho
chính sách thân EU (đại diện là Bilinsky) và nhóm ủng hộ cho chính sách thân
Nga (Lieven). Cuốn sách của Yaroslav Bilinsky đưa ra hai dự báo: NATO sẽ kết
thúc việc mở rộng bằng kết nạp Ukraina và ba nước vùng Baltic và sử dụng bốn
nước này ngăn chặn ảnh hưởng của nước Nga. Cũng với các nước Baltic, Ukraina
mong muốn gia nhập vào NATO. Trong khi đó, Bilinsky cho rằng phương Tây muốn
tăng cường an ninh cho Ukraina nhưng chưa kết nạp nước này vào NATO vì những
mối quan hệ an ninh của Ukraina với Nga (hiệp ước Hạm đội biển Đen giữa Ukraina
và Nga). Điều này ngầm cho thấy nếu Ukraina muốn gia nhập NATO thì cần dứt
khoát các mối quan hệ quân sự với Nga.
Ngược với luận
điểm ủng hộ Ukraina gia nhập NATO của Bilinsky, Lieven cho rằng Ukraina không
nên gia nhập khối hiệp ước quân sự này. Theo nhận định của tác giả này, phương
Tây ủng hộ các cải cách kinh tế, nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Ukraina
nhưng không khuyến khích nước này vào NATO để biến thành một vùng đệm
chống lại nước Nga[5].
Lieven đưa ra ba điều kiện để Ukraina có thể gia nhập NATO: khi Nga cũng được
mời gia nhập NATO, khi Nga trở thành một siêu cường và khi cải cách của Ukraina
bằng với tốc độ của các nước Đông Âu. Lieven cho rằng Ukraina và Nga vốn là một
khối liên kết hữu cơ mang tính lịch sử, văn hóa, chính trị, xã hội, Ukraina và
Nga mang nhiều nét chung về tâm lý, tôn giáo, ngôn ngữ. Trong khi đó, quan hệ
giữa Ukraina và châu Âu đã bị phá vỡ trong một thời gian dài và khó mà hàn gắn
ngay. Theo Lieven, nếu quan hệ Ukraina- Nga bị ngăn chặn thì không hẳn là có
lợi cho Ukraina. Thêm vào đó, nếu Ukraina một mực chỉ chú trọng tới hội nhập
với châu Âu thì bản thân Ukraina đã mất đi một lợi thế trong việc kế thừa
truyền thống hợp tác với Nga để tạo ra sức mạnh cho mình. Lieven đã sử dụng
nhiều tài liệu về chính sách đối ngoại từ thời Kravchuk (1991-1994) đến thời
Kuchma (1994-2005) như là việc chuyển từ chính sách thân phương Tây sang thân
Nga.
David Albright
và Semyen Appatov cũng xem xét chính sách đối ngoại của Ukraina từ hai vecto:
châu Âu và Mỹ ở phương Tây và Nga ở phía Đông thông qua phân tích chính sách
của Kravchuk và Kuchma. Hai tác giả này cho rằng lựa chọn tốt hơn cả đối với
Ukraina là thân với phương Tây về chính trị và thân với phương Đông về kinh tế.
Tuy nhiên, tác giả phân tích rằng nếu vậy quan hệ Ukraina-Nga sẽ mang tính giả
tạo, thiếu tin cậy lẫn nhau. Cuốn sách này cũng nhìn nhận lực lượng thân Nga ở
Ukraina có khả năng gây ra xung đột dẫn tới khả năng ly khai của vùng Crime và
Donbas[6] .
Cuốn sách này giành một phần trình bày quan hệ Ukraina-Nga, theo đó một số tác
giả cho rằng Nga coi việc Ukraina tuyên bố độc lập mang tính tiêu cực và thể
hiện thái độ quay lưng lại với Nga. Cao trào cho phản ứng này là xung đột ở
Chechnya năm 1994-1995 sau khi nhiều nước SNG bao gồm cả Ukraina đã từ bỏ
liên kết chính trị-quân sự và chỉ giới hạn trong quan hệ kinh tế với Nga[7].
Nhận định về
khả năng gia nhập EU của Ukraina, tác giả Nancy Popson cho rằng “Đối với châu
Âu, Ukraina vẫn còn có nhiều hạn chế về các thiết chế chính trị và kinh tế (đặc
biệt là hệ thống pháp lý) và đều có khoảng cách rất xa với tiêu chuẩn châu Âu. Đặc
biệt châu Âu có phản ứng tiêu cực khi sản phẩm xuất khẩu chính của nước này lại
là những thứ mà các nước EU đang dư thừa như nông sản và thép. Các quan chức EU
vẫn khuyến khích Ukraina hợp tác và tuân theo các chuẩn mực pháp lý, kinh tế,
dân chủ của EU nhưng bất chấp những lời khẩn cầu từ Kiev, EU từ chối xem xét kế
hoạch gia nhập EU của nước này”[8].
Quan hệ giữa
Ukraina và EU được phân tích kỹ hơn trong “EU và Ukraina: hàng xóm, bạn bè hay
đối tác?” (The EU and Ukraine: neighbours, friends, partners?)[9].
Ann Lewis, tác giả của cuốn sách này nhận xét rằng Ukraina đã sớm đặt quan hệ
với EU từ thời kỳ Ukraina còn lúng túng trong phát triển nội lực và định hướng
chính sách đối ngoại. Bản thân tổng thống Kuchma bị vây hãm trong sự chống đối
của nhân dân vì hoạt động yếu kém của chính phủ. Trong khi đó, Kuchma cũng bị
Mỹ và châu Âu mất tín nhiệm do liên quan đến trách nhiệm chống tội phạm. Mặc dù
Ukraina tuyên bố ưu tiên định hướng sang châu Âu và xin gia nhập EU nhưng
rõ ràng nước này còn xa mới đáp ứng được các yêu cầu của EU về chính trị và
kinh tế đối với các nước ứng cử viên (tiêu chuẩn Copenhagen). Một số vấn đề mà
Ukraina gặp rắc rối trong quan hệ với EU vẫn là tự do truyền thông hay các rào
cản đối với xã hội dân sự đã khiến Ukraina càng thêm xa rời các tiêu chuẩn dân
chủ của EU, mặc dù Ukraina đã nỗ lực xây dựng khái niệm công dân với những sự
khác biệt về tộc người, tôn giáo và ngôn ngữ, thể hiện sự dung hợp những khác
biệt về văn hóa quốc gia. Giữa Ukraina với EU vẫn còn những khác biệt quá lớn,
đặc biệt trong sự điều hành luật pháp cũng như vai trò không rõ ràng và quyền
hạn của tổng thống khiến nền dân chủ bị vi phạm. Một số lo ngại cho rằng hệ
thống đầy biến động của các đảng ở Ukraina do chưa có một liên minh đảng phái
đủ mạnh đã gây ra scandal nhiều hơn là củng cố diện mạo chính trị. Trong khi
đó, các cải cách kinh tế của Ukraina lại được coi là đầy hứa hẹn và gây ấn
tượng với phương Tây bằng việc duy trì tăng trưởng trong mọi lĩnh vực và kiềm
chế được lạm phát. Mối quan tâm được giành cho ngành năng lượng do vai
trò quan trọng của nó đối với nền kinh tế (nhập khẩu năng lượng chiếm một phần
lớn trong nợ nước ngoài của Ukraina, trong khi nền công nghiệp Ukraina được coi
là tiêu phí ít năng lượng) và Ukraina còn có vị trí quan trọng trong việc là
nơi trung chuyển dầu và khí đốt cho EU.
Năm 2004, khủng
hoảng chính trị ở Ukraina và cuộc cách mạng Cam đã chấm dứt giai đoạn cầm quyền
hơn 10 năm của Tổng thống Kuchma. Thay thế ông Kuchma, Tổng thống Yushchenko
người vốn luôn thể hiện chính sách thân phương Tây và đề ra các cải cách
trong nước nhằm ngăn chặn tham nhũng, thúc đẩy thị trường tự do tuyên bố kiên
trì theo đuổi việc gia nhập EU. Tuy nhiên châu Âu lại tỏ ra hờ hững. Phân tích
các động thái của EU sau khi ông Yuschenko lên nắm quyền, Michael Meyer nhận
xét rằng “EU hoàn toàn không chào đón Ukraina.. EU vẫn lưỡng lự”[10].
Ngay trong tháng đầu tiên tại vị, Yuschenko đã sang Brussel hai lần, trong đó
có 1 lần tham gia Hội nghị thượng đỉnh NATO ngày 22-23 tháng 2 năm 2005.
Trong phiên họp chung với Ukraina, TT Mỹ Bush đã ví TT Ukraina với TT
Washington, người đã đấu tranh vì những giá trị mà cả phương Tây đề cao. Ngược
lại, TT Pháp Jacques Chirac rời phiên họp sớm. Thủ tướng Đức Schoeder giữ im
lặng. Thủ tướng Tây Ban Nha thì báo cáo lại là buổi họp “không có gì hấp dẫn”.
Những động thái này được Meyer đánh giá là “không hay đối với Kiev”[11].
Điều duy nhất mà EU có thể làm cho Ukraina là coi Ukraina như một nước láng
giềng và điều này rõ ràng không đáp ứng tham vọng muốn gia nhập EU và lập “khu
vực kinh tế tự do” với EU của Ukraina. Theo đánh giá của giới quan sát EU thì
Ukraina đã đặt vấn đề gia nhập EU và NATO trong bối cảnh không thuận lợi. Trước
hết đây là giai đoạn EU đang phải vật lộn với đợt mở rộng lớn nhất trong
lịch sử với việc gia nhập của 10 thành viên từ Đông Âu. Thổ Nhĩ Kỳ còn đang xếp
hàng chờ đợi. Trong khi đó, Ukraina là một nước với dân số khá đông so với kích
cỡ EU (gần 50 triệu dân), lại là nước có nền kinh tế nghèo nàn, có thể sẽ lại
thêm một gánh nặng cho EU nếu gia nhập. Các nhà lãnh đạo “thân Nga” của EU như
Bỉ, Pháp, Đức- lo ngại rằng việc vội vã chiêu nạp Ukraina có thể gây ảnh hưởng
tiêu cực tới quan hệ với Nga, đặc biệt nếu Ukraina gia nhập NATO. Thủ tướng
Luxembourg, khi đó là chủ tịch luân phiên EU đã nói trong tuyên bố tháng
12/2005 của ông “Tôi hiện chưa chấp nhận nguyện vọng của Ukraina xin trở thành
thành viên EU”[12].
Trong khi đó,
mối quan hệ giữa Ukraina với Nga sau năm 2004 vẫn không ổn định. Một mặt,
Nga vẫn nắm giữ việc kiểm soát Sevastopol do liên quan đến Hạm đội biển
Đen, và tiếp tục đặt các đường ống dẫn dầu qua Ukraina để tới châu Âu. Nga và
Ukraina vẫn được coi là ràng buộc nhau nhiều về kinh tế, chưa nói đến các mối
liên hệ lịch sử văn hóa tộc người gắn bó giữa hai bên. Mặt khác, việc Ukrain
mong muốn thoát khỏi ảnh hưởng của Nga và giữ định hướng thân phương Tây khiến
nhiều người lo ngại cho sự đúng đắn của chiến lược đối ngoại của quốc gia mới
giành độc lập này.
Trong bài báo
gần đây, Tamerlan Vahabov đã xem xét yếu tố Ukraina trong cuộc chơi giữa các
cường quốc Mỹ, EU và Nga. Tác giả này cho rằng Mỹ đã bỏ qua hai yếu tố quan
trọng mà Ukraina rất cần là đảm bảo an ninh quốc phòng và an ninh năng lượng,
điều mà trên thực tế Ukraina lại phụ thuộc nhiều vào Nga. Ngày 6-6-2010, Quốc
hội Ukraina phê chuẩn nghị quyết “Những đảm bảo thực tế giữ cho Ukraina không
có hạt nhân”[13].
Ngày 24-4-2010, Ủy ban Chính sách Đối ngoại và An ninh, một tổ chức phi chính
phủ đặt tại Ukraina, tổ chức hội thảo “Diễn đàn An ninh quốc tế: Từ An ninh của
Ukraina tới An ninh châu Âu: những thách thức của thế kỷ XXI” ở Lvov. Tới dự
diễn đàn có các trí thức, đại biểu quốc hội Ukraina, và các tổ chức. Chủ đề
chính được bàn tới trên diễn đàn là chính sách không liên kết của Ukraina.
Nhiều chuyên gia cho rằng Ukraina không cần thiết phải gấp rút trở thành thành
viên NATO mà cần xây dựng một quan điểm mới về an ninh quốc gia[14].
Các đại biểu cam kết sẽ đề xuất quan điểm mới này và trình lên tổng thống
Yanukovich. Sau khi Yanukovich lên nắm giữ cương vị tổng thống Ukraina năm
2010, Ukraina đã tuyên bố thái độ trung hòa đối với các thiết chế an ninh trong
khu vực như NATO và CSTO. Yanukovich dường như đang cố gắng giữ vai trò cân
bằng giữa Mỹ và Nga trong chính sách đối ngoại của mình. Trong hội nghị thượng
đỉnh về năng lượng hạt nhân ở Washington tháng 4 năm 2010, Ukraina tuyên bố họ
sẽ phá bỏ các kho hạt nhân với uran đã làm giàu. Sau khi trúng cử tổng thống,
chuyến công du nước ngoài đầu tiên mà Yanukovich thực hiện là viếng thăm
Brussel chứ không phải tới Moskva như nhiều người mong đợi. Tuy nhiên, sau đó
Ukraina đã ký lại hiệp định với Nga về kéo dài thời hạn cho thuê cảng
Sevastopol tới năm 2042 cho Hạm đội biển Đen. Quốc hội Ukraina cũng đã nhanh
chóng thông qua hiệp định này, thậm chí vi phạm nguyên tắc phê chuẩn khi đưa
tên một số người vắng mặt vào danh sách bỏ phiếu để đạt được đồng thuận[15].
Theo cựu Bộ trưởng Bộ ngoại giao Boris Tarasyuk, Ukraina vẫn đang đối mặt với
vấn đề phân cực chính trị và định hướng đối ngoại của họ phụ thuộc vào ai sẽ là
siêu cường thế giới. Volodimyr Ohryzko, một cựu Bộ trưởng ngoại giao khác thì
cho rằng nếu Ukraina đi theo hướng không liên kết thì sẽ là một gánh nặng tài
chính với nước này vì phải có nguồn tài chính đảm bảo an ninh quốc phòng độc
lập. Do vậy, cho đến hiện nay, ưu tiên chính sách đối ngoại của Ukraina vẫn
chưa hẳn đã được định hình rõ rệt và vẫn xoay xung quanh Mỹ, EU, Nga. Khoảng
cách địa lý không cho phép Mỹ xác lập một vị trí chủ chốt trong đối ngoại với
Ukraina, EU hiện đang gặp khủng hoảng với các vấn đề nội khối, Nga lại đang
hiện lên với vai trò ngày càng được củng cố trong khu vực. Đặc biệt, quan hệ
Mỹ-Nga đang lên kể từ khi Nga và Mỹ đã ký được Hiệp ước giải trừ vũ khí chiến
lược, Nga cho phép Mỹ sử dụng lãnh thổ làm bàn đạp cho các cánh quân vào
Afganistan, Nga tăng cường sức ép với Iran về vấn đề hạt nhân khiến cho “thách
thức chính của Obama sẽ có khả năng chuyển thành hợp tác bền vững do sự nhượng
bộ của Nga”[16].
Đối với vấn đề
an ninh năng lượng, ngày 22-4-2010, Tổng thống Nga và Ukraina đã ký Hiệp ước
Kharkov về việc gia hạn cho Nga thuê cảng Sevastopol đến năm 2042 và một hiệp
ước đổi lại về việc Nga giảm 30% giá khí đốt cho Ukraina. Việc Mỹ và châu
Âu không đầu tư vào kinh tế Ukraina và sự phụ thuộc của nước này về năng lượng
đối với Nga làm cho Ukraina phải xem lại ưu tiên định hướng phương Tây trong
chính sách đối ngoại của mình. Tuy nhiên theo bình luận của các chuyên gia thì
dường như Ukraina vẫn phải chịu thiệt trong Hiệp ước này vì giá ga mà Nga giành
cho Ukraina là 230 đola/m3, tương đương với giá ga mà EU được hưởng, mặc dù EU
chẳng hề phải nhượng bộ Nga trong vấn đề quan trọng như Sevastopol[17].
Ukraina hiện
đang rất cần đầu tư của Mỹ và EU vào việc hiện đại hóa hệ thống khai thác và
cung cấp năng lượng để không còn phải phụ thuộc vào Nga. Trong khi đó, hệ thống
năng lượng, phân phối khí đốt và xuất khẩu khí đốt của Ukraina hiện do công ty
nhà nước quản lý là chủ yếu (Naftohaz Ukraininy). Công ty này quản lý hệ thống
đường ống dẫn của Nga qua Ukraina. Theo tuyên bố của Brussel ngày 23-3-2009 về
hiện đại hóa hệ thống dẫn khí đốt của Ukraina, hệ thống này phải được phân chia
làm nhiều bộ phận mang tính tự hạch toán, mỗi bộ phận phải chịu trách nhiệm về
chuyên môn của mình. Quan điểm của EU là tái cơ cấu và tổ chức lại Naftohaz sẽ
giúp quản lý và giám sát dễ dàng hơn, hiệu quả và minh bạch hơn. Và như vậy
cũng là dễ giám sát Hiệp ước Kharkov ký giữa Ukraina và Nga, đây cũng là điều
kiện để EU có thể đầu tư vào công ty này. Theo tuyên bố Brussel, Ukraina đã đưa
ra một vài cam kết về chính sách minh bạch và công khai đối với các nhà đầu tư
vào hệ thống dẫn khí đốt. Ukraina cũng phải chịu trách nhiệm thông báo các
thông tin về kỹ thuật và tài chính đối với các nhà đầu tư.
Với những hứa
hẹn từ phía EU, các chuyên gia vẫn cho rằng Ukraina cần thực thi một chính sách
thông minh trong quan hệ với Nga. Bản thân EU và Nga hiện cũng có nhiều ràng
buộc với nhau về kinh tế, do đó “Ukraina cần hội nhập với EU nhưng vẫn phải duy
trì quan hệ ổn định với Nga. Điều này làm tăng thêm hình ảnh của Ukraina là một
đối tác năng lượng và thương mại đáng tin cậy”[18].
Có thể dễ dàng
nhận thấy rằng hiện nay Ukraina vẫn đang lúng túng trong việc xác định ưu tiên
trong chính sách đối ngoại và vẫn đang tìm kiếm cho mình một “điểm tựa” vững
chắc về an ninh quốc phòng và an ninh năng lượng. Trong bối cảnh như vậy, châu
Á hiện vẫn chưa phải là một hướng ưu tiên trong chính sách của Ukraina. Tuy
nhiên, trước đề xuất gần đây cho rằng Ukraina nên phát triển chính sách trung
lập thay bằng dựa dẫm vào các cường quốc, trong thời gian tới, Ukraina sẽ đa
dạng hóa các mối quan hệ nhằm củng cố hơn nữa hình ảnh của mình trên thế giới.
Tài liệu tham
khảo
Yaroslav
Bilinsky (1999). Endgame in NATO’s enlargement: the Baltic States, NATO
and Ukraine. London, Westport, CT: Praeger.
Anatol Lieven
(1999). Ukraina and Russia: a fraternal rivalry. Washington DC: US
Institute of Peace Press.
David Albright
và Semyen Appatov (cb) (1999). Ukraina and European
Security. Basingstoke: Macmillan.
Nancy Popson
(2002). Where does Europe end? The Wilson Quarterly, Vol 26, No 3
(Summer 2002), pp. 13-19
Ann Lewis
(2002). The EU and Ukraine: neighbours, friends, partners? London:
The Federal Trust. 319p
Meyer, M.
(2005), Ukraine: Stranded between Two World? World Policy Journal,
Vol.22, No 1.
Moroney, J.D.P,
Kuzio T & Molchanov (2002). Ukrainian Foreign and Security Policy:
Theoretical and Comparative Perspectives. Praeger, Westport, CT, and
London. 298 pp.
Vahabov
Tamerlan (2010). Ukraine: A Challenge for US, EU & NATO Regional
Policy. Caucasian Review of International Affairs, Columbia
University. Vol 4 (3)- Summer 2010
[1]Moroney, J.D.P, Kuzio T & Molchanov. Ukrainian
Foreign and Security Policy: Theoretical and Comparative Perspectives.
Praeger, Westport, CT, and London, 2002. 298 pp.
[2]Wolczuk R. (2004). Book review “Ukrainian Foreign and
Security Policy: Theoretical and Comparative Perspectives”. Europe-Asia
Studies. Vol 56, No2 (Mar., 2004), p.322
[5]Anatol Lieven (1999). Ukraina and Russia: a
fraternal rivalry. Washington DC: US Institute of Peace Press. P.8
[6]David Albright và Semyen Appatov (cb) (1999). Ukraina
and European Security. Basingstoke: Macmillan, p.133
[7]Mặc dù Ukraina là một trong ba quốc gia thành lập SNG năm
1991 nhưng Ukraina sau đó đã không phê chuẩn Hiến chương SNG nên đã không được
coi là thành viên của SNG
[8]Nancy Popson (2002). Where does Europe end? The
Wilson Quarterly, Vol 26, No 3 (Summer 2002), pp. 13
[13]Kyiv post “Parliament proposes drafting international
documents to strengthen security assuarances to Ukraine” Interfax, http://www.kyivpost.com
[14]“International Security Forum Resolution Adopted”, Council
for Foreign and Security Policy,http://www.cfsp.org.ua/en/about-cfsp/91-2010-06-09-34-01
[15]Dead Souls voted for Yanukovich/Medvedev pact, Pravda http://www.pravda.com.ua/news/2010/04/27/4977472
[16]Vahabov Tamerlan. Ukraine: A Challenge for US, EU & NATO
Regional Policy. Caucasian Review of International Affairs, Columbia
University. Vol 4 (3)- Summer 2010, p.298
TRẦN
THỊ PHƯƠNG HOA
Bài viết này
trình bày khái quát về chính sách đối ngoại của Ukraina kể từ năm 1991 cho đến
2010. Trong thời gian này đã có một số công trình nghiên cứu về chính sách đối
ngoại an ninh của Ukraina được xuất bản. Có hai thời điểm số lượng đầu sách ra
nhiều nhất là cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000, khi Ukraina đã dần
định hình chính sách đối ngoại và an ninh sau 10 năm cải cách và khẳng định
mình trên trường quốc tế. Thời điểm thứ hai, với số đầu sách ít hơn là vào năm
2005, sau cuộc Cách mạng Cam 2004, được coi là cuộc cách mạng cuối cùng trong
chuỗi các cuộc cách mạng màu sắc trong không gian hậu Xô Viết. Năm 2010, sau
khi Tổng thống Yanukovich lên nắm quyền, đã lẻ tẻ xuất hiện những bài báo đánh
giá và dự báo về định hướng đối ngoại của Ukraina. Có thể nói, hầu hết những
bình luận về chính sách đối ngoại của Ukraina đều xoay quanh hai đối tác quan
trọng của nước này là EU và Nga. Bản thân Ukraina và nền chính trị của Ukraina
cũng luôn thể hiện những tính toán trong mối quan hệ với hai cường quốc này.
Ngoài ra, quan hệ với Mỹ và NATO cũng là nội dung được đề cập đến. Trong khi
đó, châu Á dường như ít xuất hiện trong các nghiên cứu nêu trên.
Cuốn sách
được coi là công trình đầu tiên trình bày một cách hệ thống và có cơ sở
lý thuyết về chính sách đối ngoại của Ukraina trong 10 năm đầu sau khi tuyên bố
độc lập được xuất bản năm 2002 với tên gọi Chính sách đối ngoại và an
ninh của Ukraina: Quan điểm lý thuyết và so sánh (Ukrainian Foreign
and Security Policy: Theoretical and Comparative Perspectives) của Moroney[1].Đây
là cuốn sách đưa ra nhiều vấn đề, quan điểm đa dạng, thậm chí đối lập nhau về
định hướng chiến lược chính sách đối ngoại và an ninh của Ukraina. Cuốn sách
298 trang này gồm 3 phần, không kể phần Mở đầu và Kết luận. Phần I có tựa đề
“Những hạn chế của chủ nghĩa hiện thực” phân tích những hạn chế của việc nghiên
cứu quan hệ đối ngoại của Ukraina nếu tiếp cận từ chủ nghĩa hiện thực. Những
nghiên cứu theo hướng này thường quá chú trọng đến việc Ukraina đã thất bại
trong xây dựng chính sách đối ngoại dựa trên các nhân tố nội lực. Nhiều
tác giả cho rằng việc tiếp cận tới chính sách đối ngoại của Ukraina từ quan
điểm cấu trúc (constructivism) là khả thi hơn. Roman Wolczuk nhận xét “sẽ
là một câu hỏi ngu ngốc “nước Pháp là gì?”, vậy mà gần đây chỉ thấy người ta
mải miết đi tìm câu trả lời cho câu hỏi “Ukraina là gì?”, “nước Nga là gì”, dẫn
đến những bế tắc về lý thuyết”[2].
Vấn đề thường trực trong đầu óc các nhà hoạch định chính sách đối ngoại của
Ukraina kể từ khi nước này giành độc lập năm 1991 là làm sao khẳng định bản sắc
Ukraina trên trường quốc tế, trong khi bản thân nội bộ Ukraina còn chưa
thống nhất về bản sắc dân tộc của nước này. Phần II của cuốn sách giới thiệu
những vấn đề liên quan đến an ninh của Ukraina, trong đó có yếu tố quân sự. Các
tác giả công nhận rằng Ukraina đã thành công trong việc kế thừa sức mạnh quân
sự có từ thời Liên Xô cũ với vị thế độc lập mới của Ukraina. Tuy nhiên, đề tài
về xây dựng sức mạnh quốc phòng của Ukraina hiện vẫn chưa được nghiên cứu
sâu như nhận định của nhiều tác giả. Phần thứ III của cuốn sách trình bày về
“Những định hướng của chính sách đối ngoại và an ninh Ukraina”, trong đó định
hướng châu Âu vẫn được coi là ưu tiên hàng đầu đối với Ukraina.
Các tác giả đã
dựa trên nhiều lý thuyết quan hệ quốc tế, trong đó chủ yếu thiên về chủ nghĩa
cấu trúc (constructivism) hơn là chủ nghĩa hiện thực (realism). Nhận xét về
chính sách đối ngoại của Ukraina kể từ năm 1991 cho đến nay, một số tác giả cho
rằng “Ukraina tiến hành một chính sách đối ngoại bất ổn định và dễ lung lay.
Kiev chưa đưa ra một cam kết chính thống nào về bất cứ một định hướng ưu tiên
nào”[3].
Trong khi đó, một số khác nhận thấy định hướng chính sách thân phương Tây của
Ukraina lộ rõ. Phân tích của Paul D’Anieri được coi là phù hợp hơn cả “Hiện
nay, tư tưởng nhằm tăng cường hình ảnh dân tộc và động cơ địa chính trị
của Ukraina đều thể hiện trong chính sách đối ngoại của họ: thiết lập quan hệ
với châu Âu, độc lập với Nga nhưng không hoàn toàn cắt đứt với Nga. Theo tôi,
đó là chính sách của Ukraina trong 10 năm qua (1991-2001)”[4].
Trên thực tế, hầu hết các tác giả đều nhận thấy hai khuynh hướng nổi trội trong
chính sách đối ngoại của Ukraina: khẳng định vị thế độc lập tự chủ và định
hướng thân phương Tây nhưng vẫn duy trì quan hệ với Nga.
Nếu cuốn sách
do Moroney làm chủ biên được coi là giới thiệu một cách có hệ thống hơn cả về
chính sách đối ngoại của Ukraina thì trước đó, năm 1999 một loạt các sách đã
xuất bản phân tích quan hệ của Ukraina với Nga, với phương Tây, trong đó
có châu Âu và NATO. Đó là các cuốn “Chấm dứt sự mở rộng NATO: các quốc gia
Baltic, NATO và Ukraina” (Endgame in NATO’s enlargement: the Baltic States,
NATO and Ukraine) của Yaroslav Bilinsky dài 148 trang; “Ukraina và Nga: anh em
kình địch” (Ukraina and Russia: a fraternal rivalry) của Anatol Lieven dài 182
trang và “Ukraina và an ninh châu Âu” (Ukraina and European Security) của David
Albright và Semyen Appatov dài 288 trang. Tất cả những cuốn sách này đều thể
hiện khuynh hướng lưỡng cực trong chính sách đối ngoại của Ukraina: cực EU và
cực Nga. Bản thân các tác giả cũng tự chia thành hai nhóm: nhóm ủng hộ cho
chính sách thân EU (đại diện là Bilinsky) và nhóm ủng hộ cho chính sách thân
Nga (Lieven). Cuốn sách của Yaroslav Bilinsky đưa ra hai dự báo: NATO sẽ kết
thúc việc mở rộng bằng kết nạp Ukraina và ba nước vùng Baltic và sử dụng bốn
nước này ngăn chặn ảnh hưởng của nước Nga. Cũng với các nước Baltic, Ukraina
mong muốn gia nhập vào NATO. Trong khi đó, Bilinsky cho rằng phương Tây muốn
tăng cường an ninh cho Ukraina nhưng chưa kết nạp nước này vào NATO vì những
mối quan hệ an ninh của Ukraina với Nga (hiệp ước Hạm đội biển Đen giữa Ukraina
và Nga). Điều này ngầm cho thấy nếu Ukraina muốn gia nhập NATO thì cần dứt
khoát các mối quan hệ quân sự với Nga.
Ngược với luận
điểm ủng hộ Ukraina gia nhập NATO của Bilinsky, Lieven cho rằng Ukraina không
nên gia nhập khối hiệp ước quân sự này. Theo nhận định của tác giả này, phương
Tây ủng hộ các cải cách kinh tế, nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Ukraina
nhưng không khuyến khích nước này vào NATO để biến thành một vùng đệm
chống lại nước Nga[5].
Lieven đưa ra ba điều kiện để Ukraina có thể gia nhập NATO: khi Nga cũng được
mời gia nhập NATO, khi Nga trở thành một siêu cường và khi cải cách của Ukraina
bằng với tốc độ của các nước Đông Âu. Lieven cho rằng Ukraina và Nga vốn là một
khối liên kết hữu cơ mang tính lịch sử, văn hóa, chính trị, xã hội, Ukraina và
Nga mang nhiều nét chung về tâm lý, tôn giáo, ngôn ngữ. Trong khi đó, quan hệ
giữa Ukraina và châu Âu đã bị phá vỡ trong một thời gian dài và khó mà hàn gắn
ngay. Theo Lieven, nếu quan hệ Ukraina- Nga bị ngăn chặn thì không hẳn là có
lợi cho Ukraina. Thêm vào đó, nếu Ukraina một mực chỉ chú trọng tới hội nhập
với châu Âu thì bản thân Ukraina đã mất đi một lợi thế trong việc kế thừa
truyền thống hợp tác với Nga để tạo ra sức mạnh cho mình. Lieven đã sử dụng
nhiều tài liệu về chính sách đối ngoại từ thời Kravchuk (1991-1994) đến thời
Kuchma (1994-2005) như là việc chuyển từ chính sách thân phương Tây sang thân
Nga.
David Albright
và Semyen Appatov cũng xem xét chính sách đối ngoại của Ukraina từ hai vecto:
châu Âu và Mỹ ở phương Tây và Nga ở phía Đông thông qua phân tích chính sách
của Kravchuk và Kuchma. Hai tác giả này cho rằng lựa chọn tốt hơn cả đối với
Ukraina là thân với phương Tây về chính trị và thân với phương Đông về kinh tế.
Tuy nhiên, tác giả phân tích rằng nếu vậy quan hệ Ukraina-Nga sẽ mang tính giả
tạo, thiếu tin cậy lẫn nhau. Cuốn sách này cũng nhìn nhận lực lượng thân Nga ở
Ukraina có khả năng gây ra xung đột dẫn tới khả năng ly khai của vùng Crime và
Donbas[6] .
Cuốn sách này giành một phần trình bày quan hệ Ukraina-Nga, theo đó một số tác
giả cho rằng Nga coi việc Ukraina tuyên bố độc lập mang tính tiêu cực và thể
hiện thái độ quay lưng lại với Nga. Cao trào cho phản ứng này là xung đột ở
Chechnya năm 1994-1995 sau khi nhiều nước SNG bao gồm cả Ukraina đã từ bỏ
liên kết chính trị-quân sự và chỉ giới hạn trong quan hệ kinh tế với Nga[7].
Nhận định về
khả năng gia nhập EU của Ukraina, tác giả Nancy Popson cho rằng “Đối với châu
Âu, Ukraina vẫn còn có nhiều hạn chế về các thiết chế chính trị và kinh tế (đặc
biệt là hệ thống pháp lý) và đều có khoảng cách rất xa với tiêu chuẩn châu Âu. Đặc
biệt châu Âu có phản ứng tiêu cực khi sản phẩm xuất khẩu chính của nước này lại
là những thứ mà các nước EU đang dư thừa như nông sản và thép. Các quan chức EU
vẫn khuyến khích Ukraina hợp tác và tuân theo các chuẩn mực pháp lý, kinh tế,
dân chủ của EU nhưng bất chấp những lời khẩn cầu từ Kiev, EU từ chối xem xét kế
hoạch gia nhập EU của nước này”[8].
Quan hệ giữa
Ukraina và EU được phân tích kỹ hơn trong “EU và Ukraina: hàng xóm, bạn bè hay
đối tác?” (The EU and Ukraine: neighbours, friends, partners?)[9].
Ann Lewis, tác giả của cuốn sách này nhận xét rằng Ukraina đã sớm đặt quan hệ
với EU từ thời kỳ Ukraina còn lúng túng trong phát triển nội lực và định hướng
chính sách đối ngoại. Bản thân tổng thống Kuchma bị vây hãm trong sự chống đối
của nhân dân vì hoạt động yếu kém của chính phủ. Trong khi đó, Kuchma cũng bị
Mỹ và châu Âu mất tín nhiệm do liên quan đến trách nhiệm chống tội phạm. Mặc dù
Ukraina tuyên bố ưu tiên định hướng sang châu Âu và xin gia nhập EU nhưng
rõ ràng nước này còn xa mới đáp ứng được các yêu cầu của EU về chính trị và
kinh tế đối với các nước ứng cử viên (tiêu chuẩn Copenhagen). Một số vấn đề mà
Ukraina gặp rắc rối trong quan hệ với EU vẫn là tự do truyền thông hay các rào
cản đối với xã hội dân sự đã khiến Ukraina càng thêm xa rời các tiêu chuẩn dân
chủ của EU, mặc dù Ukraina đã nỗ lực xây dựng khái niệm công dân với những sự
khác biệt về tộc người, tôn giáo và ngôn ngữ, thể hiện sự dung hợp những khác
biệt về văn hóa quốc gia. Giữa Ukraina với EU vẫn còn những khác biệt quá lớn,
đặc biệt trong sự điều hành luật pháp cũng như vai trò không rõ ràng và quyền
hạn của tổng thống khiến nền dân chủ bị vi phạm. Một số lo ngại cho rằng hệ
thống đầy biến động của các đảng ở Ukraina do chưa có một liên minh đảng phái
đủ mạnh đã gây ra scandal nhiều hơn là củng cố diện mạo chính trị. Trong khi
đó, các cải cách kinh tế của Ukraina lại được coi là đầy hứa hẹn và gây ấn
tượng với phương Tây bằng việc duy trì tăng trưởng trong mọi lĩnh vực và kiềm
chế được lạm phát. Mối quan tâm được giành cho ngành năng lượng do vai
trò quan trọng của nó đối với nền kinh tế (nhập khẩu năng lượng chiếm một phần
lớn trong nợ nước ngoài của Ukraina, trong khi nền công nghiệp Ukraina được coi
là tiêu phí ít năng lượng) và Ukraina còn có vị trí quan trọng trong việc là
nơi trung chuyển dầu và khí đốt cho EU.
Năm 2004, khủng
hoảng chính trị ở Ukraina và cuộc cách mạng Cam đã chấm dứt giai đoạn cầm quyền
hơn 10 năm của Tổng thống Kuchma. Thay thế ông Kuchma, Tổng thống Yushchenko
người vốn luôn thể hiện chính sách thân phương Tây và đề ra các cải cách
trong nước nhằm ngăn chặn tham nhũng, thúc đẩy thị trường tự do tuyên bố kiên
trì theo đuổi việc gia nhập EU. Tuy nhiên châu Âu lại tỏ ra hờ hững. Phân tích
các động thái của EU sau khi ông Yuschenko lên nắm quyền, Michael Meyer nhận
xét rằng “EU hoàn toàn không chào đón Ukraina.. EU vẫn lưỡng lự”[10].
Ngay trong tháng đầu tiên tại vị, Yuschenko đã sang Brussel hai lần, trong đó
có 1 lần tham gia Hội nghị thượng đỉnh NATO ngày 22-23 tháng 2 năm 2005.
Trong phiên họp chung với Ukraina, TT Mỹ Bush đã ví TT Ukraina với TT
Washington, người đã đấu tranh vì những giá trị mà cả phương Tây đề cao. Ngược
lại, TT Pháp Jacques Chirac rời phiên họp sớm. Thủ tướng Đức Schoeder giữ im
lặng. Thủ tướng Tây Ban Nha thì báo cáo lại là buổi họp “không có gì hấp dẫn”.
Những động thái này được Meyer đánh giá là “không hay đối với Kiev”[11].
Điều duy nhất mà EU có thể làm cho Ukraina là coi Ukraina như một nước láng
giềng và điều này rõ ràng không đáp ứng tham vọng muốn gia nhập EU và lập “khu
vực kinh tế tự do” với EU của Ukraina. Theo đánh giá của giới quan sát EU thì
Ukraina đã đặt vấn đề gia nhập EU và NATO trong bối cảnh không thuận lợi. Trước
hết đây là giai đoạn EU đang phải vật lộn với đợt mở rộng lớn nhất trong
lịch sử với việc gia nhập của 10 thành viên từ Đông Âu. Thổ Nhĩ Kỳ còn đang xếp
hàng chờ đợi. Trong khi đó, Ukraina là một nước với dân số khá đông so với kích
cỡ EU (gần 50 triệu dân), lại là nước có nền kinh tế nghèo nàn, có thể sẽ lại
thêm một gánh nặng cho EU nếu gia nhập. Các nhà lãnh đạo “thân Nga” của EU như
Bỉ, Pháp, Đức- lo ngại rằng việc vội vã chiêu nạp Ukraina có thể gây ảnh hưởng
tiêu cực tới quan hệ với Nga, đặc biệt nếu Ukraina gia nhập NATO. Thủ tướng
Luxembourg, khi đó là chủ tịch luân phiên EU đã nói trong tuyên bố tháng
12/2005 của ông “Tôi hiện chưa chấp nhận nguyện vọng của Ukraina xin trở thành
thành viên EU”[12].
Trong khi đó,
mối quan hệ giữa Ukraina với Nga sau năm 2004 vẫn không ổn định. Một mặt,
Nga vẫn nắm giữ việc kiểm soát Sevastopol do liên quan đến Hạm đội biển
Đen, và tiếp tục đặt các đường ống dẫn dầu qua Ukraina để tới châu Âu. Nga và
Ukraina vẫn được coi là ràng buộc nhau nhiều về kinh tế, chưa nói đến các mối
liên hệ lịch sử văn hóa tộc người gắn bó giữa hai bên. Mặt khác, việc Ukrain
mong muốn thoát khỏi ảnh hưởng của Nga và giữ định hướng thân phương Tây khiến
nhiều người lo ngại cho sự đúng đắn của chiến lược đối ngoại của quốc gia mới
giành độc lập này.
Trong bài báo
gần đây, Tamerlan Vahabov đã xem xét yếu tố Ukraina trong cuộc chơi giữa các
cường quốc Mỹ, EU và Nga. Tác giả này cho rằng Mỹ đã bỏ qua hai yếu tố quan
trọng mà Ukraina rất cần là đảm bảo an ninh quốc phòng và an ninh năng lượng,
điều mà trên thực tế Ukraina lại phụ thuộc nhiều vào Nga. Ngày 6-6-2010, Quốc
hội Ukraina phê chuẩn nghị quyết “Những đảm bảo thực tế giữ cho Ukraina không
có hạt nhân”[13].
Ngày 24-4-2010, Ủy ban Chính sách Đối ngoại và An ninh, một tổ chức phi chính
phủ đặt tại Ukraina, tổ chức hội thảo “Diễn đàn An ninh quốc tế: Từ An ninh của
Ukraina tới An ninh châu Âu: những thách thức của thế kỷ XXI” ở Lvov. Tới dự
diễn đàn có các trí thức, đại biểu quốc hội Ukraina, và các tổ chức. Chủ đề
chính được bàn tới trên diễn đàn là chính sách không liên kết của Ukraina.
Nhiều chuyên gia cho rằng Ukraina không cần thiết phải gấp rút trở thành thành
viên NATO mà cần xây dựng một quan điểm mới về an ninh quốc gia[14].
Các đại biểu cam kết sẽ đề xuất quan điểm mới này và trình lên tổng thống
Yanukovich. Sau khi Yanukovich lên nắm giữ cương vị tổng thống Ukraina năm
2010, Ukraina đã tuyên bố thái độ trung hòa đối với các thiết chế an ninh trong
khu vực như NATO và CSTO. Yanukovich dường như đang cố gắng giữ vai trò cân
bằng giữa Mỹ và Nga trong chính sách đối ngoại của mình. Trong hội nghị thượng
đỉnh về năng lượng hạt nhân ở Washington tháng 4 năm 2010, Ukraina tuyên bố họ
sẽ phá bỏ các kho hạt nhân với uran đã làm giàu. Sau khi trúng cử tổng thống,
chuyến công du nước ngoài đầu tiên mà Yanukovich thực hiện là viếng thăm
Brussel chứ không phải tới Moskva như nhiều người mong đợi. Tuy nhiên, sau đó
Ukraina đã ký lại hiệp định với Nga về kéo dài thời hạn cho thuê cảng
Sevastopol tới năm 2042 cho Hạm đội biển Đen. Quốc hội Ukraina cũng đã nhanh
chóng thông qua hiệp định này, thậm chí vi phạm nguyên tắc phê chuẩn khi đưa
tên một số người vắng mặt vào danh sách bỏ phiếu để đạt được đồng thuận[15].
Theo cựu Bộ trưởng Bộ ngoại giao Boris Tarasyuk, Ukraina vẫn đang đối mặt với
vấn đề phân cực chính trị và định hướng đối ngoại của họ phụ thuộc vào ai sẽ là
siêu cường thế giới. Volodimyr Ohryzko, một cựu Bộ trưởng ngoại giao khác thì
cho rằng nếu Ukraina đi theo hướng không liên kết thì sẽ là một gánh nặng tài
chính với nước này vì phải có nguồn tài chính đảm bảo an ninh quốc phòng độc
lập. Do vậy, cho đến hiện nay, ưu tiên chính sách đối ngoại của Ukraina vẫn
chưa hẳn đã được định hình rõ rệt và vẫn xoay xung quanh Mỹ, EU, Nga. Khoảng
cách địa lý không cho phép Mỹ xác lập một vị trí chủ chốt trong đối ngoại với
Ukraina, EU hiện đang gặp khủng hoảng với các vấn đề nội khối, Nga lại đang
hiện lên với vai trò ngày càng được củng cố trong khu vực. Đặc biệt, quan hệ
Mỹ-Nga đang lên kể từ khi Nga và Mỹ đã ký được Hiệp ước giải trừ vũ khí chiến
lược, Nga cho phép Mỹ sử dụng lãnh thổ làm bàn đạp cho các cánh quân vào
Afganistan, Nga tăng cường sức ép với Iran về vấn đề hạt nhân khiến cho “thách
thức chính của Obama sẽ có khả năng chuyển thành hợp tác bền vững do sự nhượng
bộ của Nga”[16].
Đối với vấn đề
an ninh năng lượng, ngày 22-4-2010, Tổng thống Nga và Ukraina đã ký Hiệp ước
Kharkov về việc gia hạn cho Nga thuê cảng Sevastopol đến năm 2042 và một hiệp
ước đổi lại về việc Nga giảm 30% giá khí đốt cho Ukraina. Việc Mỹ và châu
Âu không đầu tư vào kinh tế Ukraina và sự phụ thuộc của nước này về năng lượng
đối với Nga làm cho Ukraina phải xem lại ưu tiên định hướng phương Tây trong
chính sách đối ngoại của mình. Tuy nhiên theo bình luận của các chuyên gia thì
dường như Ukraina vẫn phải chịu thiệt trong Hiệp ước này vì giá ga mà Nga giành
cho Ukraina là 230 đola/m3, tương đương với giá ga mà EU được hưởng, mặc dù EU
chẳng hề phải nhượng bộ Nga trong vấn đề quan trọng như Sevastopol[17].
Ukraina hiện
đang rất cần đầu tư của Mỹ và EU vào việc hiện đại hóa hệ thống khai thác và
cung cấp năng lượng để không còn phải phụ thuộc vào Nga. Trong khi đó, hệ thống
năng lượng, phân phối khí đốt và xuất khẩu khí đốt của Ukraina hiện do công ty
nhà nước quản lý là chủ yếu (Naftohaz Ukraininy). Công ty này quản lý hệ thống
đường ống dẫn của Nga qua Ukraina. Theo tuyên bố của Brussel ngày 23-3-2009 về
hiện đại hóa hệ thống dẫn khí đốt của Ukraina, hệ thống này phải được phân chia
làm nhiều bộ phận mang tính tự hạch toán, mỗi bộ phận phải chịu trách nhiệm về
chuyên môn của mình. Quan điểm của EU là tái cơ cấu và tổ chức lại Naftohaz sẽ
giúp quản lý và giám sát dễ dàng hơn, hiệu quả và minh bạch hơn. Và như vậy
cũng là dễ giám sát Hiệp ước Kharkov ký giữa Ukraina và Nga, đây cũng là điều
kiện để EU có thể đầu tư vào công ty này. Theo tuyên bố Brussel, Ukraina đã đưa
ra một vài cam kết về chính sách minh bạch và công khai đối với các nhà đầu tư
vào hệ thống dẫn khí đốt. Ukraina cũng phải chịu trách nhiệm thông báo các
thông tin về kỹ thuật và tài chính đối với các nhà đầu tư.
Với những hứa
hẹn từ phía EU, các chuyên gia vẫn cho rằng Ukraina cần thực thi một chính sách
thông minh trong quan hệ với Nga. Bản thân EU và Nga hiện cũng có nhiều ràng
buộc với nhau về kinh tế, do đó “Ukraina cần hội nhập với EU nhưng vẫn phải duy
trì quan hệ ổn định với Nga. Điều này làm tăng thêm hình ảnh của Ukraina là một
đối tác năng lượng và thương mại đáng tin cậy”[18].
Có thể dễ dàng
nhận thấy rằng hiện nay Ukraina vẫn đang lúng túng trong việc xác định ưu tiên
trong chính sách đối ngoại và vẫn đang tìm kiếm cho mình một “điểm tựa” vững
chắc về an ninh quốc phòng và an ninh năng lượng. Trong bối cảnh như vậy, châu
Á hiện vẫn chưa phải là một hướng ưu tiên trong chính sách của Ukraina. Tuy
nhiên, trước đề xuất gần đây cho rằng Ukraina nên phát triển chính sách trung
lập thay bằng dựa dẫm vào các cường quốc, trong thời gian tới, Ukraina sẽ đa
dạng hóa các mối quan hệ nhằm củng cố hơn nữa hình ảnh của mình trên thế giới.
Tài liệu tham
khảo
Yaroslav
Bilinsky (1999). Endgame in NATO’s enlargement: the Baltic States, NATO
and Ukraine. London, Westport, CT: Praeger.
Anatol Lieven
(1999). Ukraina and Russia: a fraternal rivalry. Washington DC: US
Institute of Peace Press.
David Albright
và Semyen Appatov (cb) (1999). Ukraina and European
Security. Basingstoke: Macmillan.
Nancy Popson
(2002). Where does Europe end? The Wilson Quarterly, Vol 26, No 3
(Summer 2002), pp. 13-19
Ann Lewis
(2002). The EU and Ukraine: neighbours, friends, partners? London:
The Federal Trust. 319p
Meyer, M.
(2005), Ukraine: Stranded between Two World? World Policy Journal,
Vol.22, No 1.
Moroney, J.D.P,
Kuzio T & Molchanov (2002). Ukrainian Foreign and Security Policy:
Theoretical and Comparative Perspectives. Praeger, Westport, CT, and
London. 298 pp.
Vahabov
Tamerlan (2010). Ukraine: A Challenge for US, EU & NATO Regional
Policy. Caucasian Review of International Affairs, Columbia
University. Vol 4 (3)- Summer 2010
[1]Moroney, J.D.P, Kuzio T & Molchanov. Ukrainian
Foreign and Security Policy: Theoretical and Comparative Perspectives.
Praeger, Westport, CT, and London, 2002. 298 pp.
[2]Wolczuk R. (2004). Book review “Ukrainian Foreign and
Security Policy: Theoretical and Comparative Perspectives”. Europe-Asia
Studies. Vol 56, No2 (Mar., 2004), p.322
[5]Anatol Lieven (1999). Ukraina and Russia: a
fraternal rivalry. Washington DC: US Institute of Peace Press. P.8
[6]David Albright và Semyen Appatov (cb) (1999). Ukraina
and European Security. Basingstoke: Macmillan, p.133
[7]Mặc dù Ukraina là một trong ba quốc gia thành lập SNG năm
1991 nhưng Ukraina sau đó đã không phê chuẩn Hiến chương SNG nên đã không được
coi là thành viên của SNG
[8]Nancy Popson (2002). Where does Europe end? The
Wilson Quarterly, Vol 26, No 3 (Summer 2002), pp. 13
[13]Kyiv post “Parliament proposes drafting international
documents to strengthen security assuarances to Ukraine” Interfax, http://www.kyivpost.com
[14]“International Security Forum Resolution Adopted”, Council
for Foreign and Security Policy,http://www.cfsp.org.ua/en/about-cfsp/91-2010-06-09-34-01
[15]Dead Souls voted for Yanukovich/Medvedev pact, Pravda http://www.pravda.com.ua/news/2010/04/27/4977472
[16]Vahabov Tamerlan. Ukraine: A Challenge for US, EU & NATO
Regional Policy. Caucasian Review of International Affairs, Columbia
University. Vol 4 (3)- Summer 2010, p.298
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét