JACQUELINE
NEWMYER DEAL

Các nhà lãnh đạo của nước này tự gọi là “cường quốc”,bên cạnh Hoa Kỳ. Nhưng
Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) vẫn giữ độc quyền vềchính trị, và kể từ thời
gian chuẩn bị cho Thế vận hội Bắc Kinh năm 2008, nhà nước đảng trị này đã tăng
cường đàn áp những nhà hoạt động nhân quyền, các luật sư và người ủng hộ cải
cách tự do ở trong nước. Còn ở nước ngoài, Trung Quốc gia tăng các nỗ lực quân
sự nhằm khẳng định chủ quyền trên những vùng lãnh thổ đang tranh chấp, và còn
sử dụng những công cụ kinh tế, trong đó có đe dọa ngưng hoặc ngăn chặn việc
buôn bán một số loại hàng hóa nhất định. Nếu trước đây, giới tinh hoa chính trị
Trung Quốc còn nói tới những giá trị của chế độ dân chủvà các chuẩn mực quốc tế
thì bây giờ họ chủ động chào bán mô hình của họ, nhưlà món hàng thay thế cho
cái gọi là hệ thống của phương Tây. Làm sao mà nhiều thế hệ các nhà hoạch định
chính sách của Mỹ lại hiểu làm Trung Quốc đến như thế?
Thứ nhất, họ bỏ qua những tín hiệu từ lịch sử Trung Quốc
hiệnđại và hồ sơ của ĐCSTQ, tức là những thứ có thể tạo ra nghi ngờ về khái
niệm tựdo hóa không thể tránh khỏi của Trung Quốc và tiếp thu các thiết chế
quốc tếcủa nước này. Nhưng muộn còn hơn không, Orville Schell và John Delury đã
tiến hành thăm dò những tín hiệu đó trong cuốn sách tuyệt vời và rất uyên thâm,
với nhan đề:Wealth and Power: China’s Long March to the Twenty-First Century(Của
cải và sức mạnh: Cuộc trường chinh của Trung Quốc vào thế kỷ XXI). Ông Schell,
vốn là Trưởng khoa Báo chí của trường Đại học California ở Berkeley (University
of California, Berkeley’s Graduate School of Journalism) và hiện là Giám đốc
Trung tâm Hiệp hội châu Á vềquan hệ Trung – Mỹ (Asia Society’s Center on
U.S.-China Relations), còn Delury là một nhà sử học tốt nghiệp đại học Yale,
hiện giảng dạy tại trường đại học Yonsei ở Seoul. Trong tác phẩm này họ kết hợp
tính hàn lâm với văn phong báo chí đầy màu sắc và chi tiết đáng được đánh giá
cao. Họ thổi đời sống vào câu chuyện của mình bằng những bản phác thảo tiểu sử
những cây đa cây đề của nền học thuật và chính trị Trung Quốc từ thế kỷ XIX đến
thế kỷ XX, và khẳng định rằng việc hồi sinh của quốc gia được xác định bằng
thuật ngữ “phú cường” (sự giàu có và sức mạnh) – đã là mục tiêu ngay từ đầu của
những người này. Suốt hơn hai thế kỷ qua, giới tinh hoa Trung Quốc đã tìm cách
biến sự xấu hổ và nhục nhã hồi thế kỷ XIX – khi các cường quốc bên ngoài liên
tục khai thác sự kém cỏi vềquân sự của Trung Quốc – thành năng lượng để giúp
Trung Quốc đi lên và thanh toán cái quá khứ đau khổ của nó. Nếu một số người
trong giới tinh hoa đôi khi cổ động cho các giá trị chính trị của phương Tây,
thì đấy cũng chỉ là những câu chuyện đầu môi chót lưỡi và vào những lúc khi mà
họ tin rằng chế độ dân chủ tựdo có thể làm cho đất nước này giàu mạnh mà thôi.
Lời giới thiệu của Schell và Delury xác định chủ đề chung sau đây:
Khác với những cuộc cải cách chính trị
dân chủ ở phương Tây, tức là những cuộc cải cách xuất phát từ niềm tin vào một
số giá trị phổ quát và quyền con người, bắt nguồn từ “tự nhiên”, hay được tạo
hóa ban cho và do đó, đãđược mọi người tán thành bất kể hiệu quả của chúng,
truyền thống của những cuộc cải cách giữ thế thượng phong ở Trung Quốc lại xuất
phát từ quan điểm lợi ích. Mục tiêu của cải cách là đem về cho Trung Quốc sức
mạnh, vì vậy mà mọi phương tiện, miễn là đạt được mục tiêu này, đều cần phải
xem xét… Trong những giaiđoạn khác nhau trên con đường quanh co của Trung Quốc,
các nhà cải cách từng quan tâm tới nền quản trị dân chủ, không phải là vì nó
hàm chứa những quyền tựdo chính trị thiêng liêng, bất khả xâm phạm mà bởi vì nó
có thể làm cho đất nước của họ năng động hơn và do đó, trở thành mạnh mẽ hơn.
Trong giới tinh hoa Trung Quốc, mối bận tâm về quyền lực, được
hiểu như là một chức năng của sức mạnh kinh tế và quân sự, cao hơn hẳn so với
những quan tâm về nhân quyền hoặc chế độ pháp quyền, ở trong nước hay nước
ngoài thì cũng thế. Họ nhìn thế giới qua lăng kính thèm khát quyền lực. Đây là
cuộc cạnh tranh một mất một còn, và các đơn vị tính toán là nhà nước chứ không
phải là cá nhân con người hay người công dân. Mặc dù quan điểm này hoàn toàn
trái ngược với các chuẩn mực phương Tây hiện đại, nhưng lại là quan điểm gần
gũi của các chính khách thế kỷXIX ở châu Âu, thí dụ như Otto von Bismarck. Quan
điểm đó cản trở những nỗ lực nhằm tự do hóa chính trị thực sự, mà kết quả sẽ là
quyền lực của quần chúng nhân dân. Không những thế, các nhà tư tưởng hàng đầu và
các chính khách của Trung Quốc có xu hướng tự coi mình là thành tố thiết yếu
trong những nỗ lực của quốc gia nhằm vượt lên hàng đầu của cuộc ganh đua giữa
các nước – và, vì vậy mà có quyền tích lũy của cải và quyền lực cá nhân.
Đấy là cách Schell và Delury lí giải vì sao Trung Quốc không tiến
hành dân chủ hóa, vàđây là thành quả đáng kể của công trình nghiên cứu của họ.
Nhưng họ cũng cho thấy nguồn gốc nội tại của chính sách an ninh và đối ngoại
của Trung Quốc. Trong khi các tác giả tập trung chủ yếu vào sự phát triển ở
trong nước Trung Quốc thì việc phân tích của họ cung cấp bối cảnh tối quan
trọng cho việc tìm hiểu chiến lược của nước Trung Hoa hiện đại và nguồn gốc của
nó trong việc làm và suy nghĩ của các nhân vật chủ chốt của Trung Quốc trong
một thế kỷ rưỡi, từsau Chiến tranh Nha phiến. Ví dụ, các tác giả mô tả một nhà
cải cách thế kỷXIX, người đã đưa kế hoạch chi tiết cho việc hiện đại hóa hải
quân và một “cuộc tấn công nhằm thu phục nhân tâm” khu vực Đông Nam Á và nước
Nga mà dường nhưvẫn là kim chi nam cho chính sách của Bắc Kinh cho đến tận hôm
nay. Và từ cách miêu tả ông Chu Dung Cơ – đạo sư kinh tế của Đặng Tiểu Bình –
người đọc có thểphát hiện tại sao và bằng cách nào mà Chu [Dung Cơ] có thể làm
cho những ngườiđồng cấp phương Tây bị lừa khi cho rằng ông ta là một người ủng
hộ thị trường tựdo thực sự, trong khi trên thực tế, ông ta không có ý định từ
bỏ chủ nghĩa tưbản do nhà nước tài trợ. Kể từ khi xuất hiện của nhà nước hiện
đại vào giaiđoạn cáo chung của triều đại cuối cùng, các nhà tư tưởng hàng đầu
và các chính khách của Trung Quốc đã có ý định tái lập lại Trung Nguyên, làm
cho nước này trở thành sức mạnh vượt trội. Họ cho rằng mục tiêu này có thể biện
hộ cho mọi phương tiện, vì vậy mà họ phải ăn cắp, lừa dối và sử dụng vũ lực
nhằm chống lại các đối thủ, cả các đối thủ thực sự lẫn đối thủ tiềm tàng, cũng
như các đồng minh của họ nữa.
Cuốn sách liệt kê một loạt những người đi đầu trong sự phục hồi
của Trung Quốc giaiđoạn cuối nhà Thanh, khi các nước phương Tây và Nhật Bản
nhiều lần gây chiến với triều đại đã mất hết tinh thần và đang tan rã này. Như
được phản ánh trong chương trình giảng dạy lịch sử bắt buộc cho tất cả học sinh
Trung Quốc hiện nay, những nỗi kinh hoàng mà nước này đã trải qua gồm có các
cuộc chiến tranh nha phiến giai đoạn 1839-1842 và giai đoạn 1856-1860, Chiến
tranh Trung- Nhật lần thứ nhất 1894-1895, Khởi nghĩa Nghĩa Hòa Đoàn năm 1900 và
Hội nghị hòa bình Paris sau Thế chiến I năm 1919, tức là hội nghị đã chuyển
những cơ sở của Đức trên hai bán đảo Liêu Đông và Sơn Đông cho Nhật Bản thuê.
(Chương trình giảng dạy của Trung Quốc bỏ qua vụ nổi loạn Thái Bình Thiên Quốc,
tức là cuộc nội chiến tàn phá đất nước suốt từ năm 1850 đến năm 1864, vốn là
một đòn choáng váng đối với nhà Thanh.) Trong số những nhân vật được mô tả
trong thời kỳ này là các nhà trí thức có tinh thần cải cách cuối thế kỷ XIX như
Wei Yuan (Ngụy Nguyên, 1794-1857) và Feng Guifen (Phùng Quế Phân, 1809-1874);
Từ Hi Thái hậu (1835-1908), nhà cầm quyền hiệu quả cuối cùng của vương triều
này; Lương Khải Siêu (1873-1929), một nhà tư tưởng trong lúc giao thời giữa hai
thế kỉ, người gọi đất nước mình là “con bệnh của Châu Á”; Tôn Trung Sơn
(1866-1925), người sáng lập Quốc Dân Đảng; Trần Độc Tú (1879-1942), cha đẻ của
phong trào Ngũ Tứnăm 1919; và Tưởng Giới Thạch (1887-1975), lãnh đạo Quốc Dân
Đảng sau khi Tôn Trung Sơn chết, rồi thua cuộc nội chiến và phải bỏ chạy ra Đài
Loan. Khi vua nhàThanh cuối cùng thoái vị vào năm 1911, Trung Quốc vẫn còn bị
chia cắt và rất yếu trong suốt giai đoạn xâm lược của Nhật Bản và cuộc nội chiến
ngay sau khi Thếchiến II kết thúc.
Sau đó là những ông trùm của Đảng Cộng sản Trung Quốc như Mao
Trạch Đông (1893-1976) và Đặng Tiểu Bình (1904-1997), cũng như Chu Dung Cơ,
người được cho là đã thúcđẩy sự tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc trong những
năm 1990. Cuối cùng là ông Lưu Hiểu Ba, giải Nobel hòa bình năm 2010 nhưng đã
bị bỏ tù từ năm 2008. Lưu [Hiểu Ba] khác với những nhân vật trước đó ở chỗ ông
là một nhà dân chủchân chính. “Mặc dù những người bất đồng chính kiến theo đường lối tự do thông minh và dũng cảm
thỉnh thoảng lại xuất hiện nhưng lời kêu gọi của họ vềmột nền dân chủ đã không
trở thành động lực chính của lịch sử Trung Quốc đươngđại, ít nhất là cho đến
nay,” Schell và Delury viết như thế. Hai tác giả này còn nói thêm rằng lời kêu
gọi khôi phục của cải và sức mạnh của Trung Quốc trong quá khứ dường như lại là
động lực mạnh hơn. Nhưng họ kết thúc cuốn sách với nhận xét lạc quan, đặc trưng
cho phương Tây:
Nhưng khi những mục tiêu này đang trở thành hiện
thực, không phải là ngày càng có nhiều người Trung Quốc đòi hưởng sự giàu có
vừa tìm được trong một xã hội cởi mở hơn và tuân thủ pháp luật hơn, nơi họ sẽ
có vai trò lớn hơn trong việc quyết định ai sẽ cai trị họ và cai trị như thế
nào ư? Có xảy ra khả năng là lòng khát khao được quốc tế tôn trọng của các nhà
lãnh đạo Trung Quốc sẽ trở thành một thỏi nam châm mạnh mẽ lôi kéo họ đến với
hình thức cai trị mang tính thỏa hiệp, thậm chí là dân chủ hơn hay sao?
Mặc dù có những câu hỏi như thế, nhưng Schell và Delury sẽ
làm độc giả thận trọng phải cảnh giác. Phần trình bày của họ về sự phát triển
nội tại của Trung Quốc giải thích vì sao chủ nghĩa độc đoán dai dẳng của nước
này không phải là một sự ngẫu nhiên mà nó phản ánh niềm tin sâu sắc của những
người thuộc tầng lớp tinh hoa trong suốt một thế kỷ rưỡi vừa qua. Tác phẩm còn
cho thấy những niềm tin nhưthế có khả năng ngăn chặn, không cho Trung Quốc trở
thành cái mà người phương Tây gọi là một tay chơi có trách nhiệm. Chỉ có một
ngoại lệ là ông Lưu Hiểu Ba, các nhân vật trung tâm còn lại của tác phẩm đều có
xu hướng xem của cải và sức mạnh là những thứ gắn bó chặt chẽ với nhau và là
kim chỉ nam trong các mối quan hệ quốc tế. Trong tâm trí của họ, thành công
trong thương mại quốc tế nhất định sẽ tạo ra sự thống trị trong lĩnh vực địa
chính trị, sẽ tạo ra những nguồn lực cho sức mạnh quân sự và tạo điều kiện gây
ảnh hưởng trên toàn thế giới. Hơn nữa, họ đã tin rằng để tái khẳng định địa vị
hàng đầu của Trung Quốc trong cái thế giới bị chi phối bởi của cải và sức mạnh
thì Trung Quốc phải tự cường bằng tất cả những biện pháp có thể và thi hành
chính sách thực dụng, có nghĩa là, phải học hỏi cả kẻ thù và áp dụng những biện
pháp đã mang tới chiến thắng của họ. Những nhà lãnh đạo Trung Quốc hiểu rằng
trong nhiều thập kỷ tới, tức là trong thời kỳ học hỏi và xây dựng lực lượng,
Trung Quốc phải tôn trọng những nước mạnh hơn. Nhưng, theo logic của chính sách
thực dụng, Bắc Kinh cũng sẽ cốgắng chia rẽ các liên minh thù địch và bóc lột
những nước yếu hơn. Cuối cùng, các nhà cải cách Trung Quốc hồi cuối thế kỷ XIX đã
làm sống lại hai nguyên tắc của Khổng giáo cổ điển, tức là những nguyên tắc
liên quan đến sự hài hòa và liêm sỉ vẫn tồn tại cho đến tận ngày hôm nay, coi
đó như một lời nhắc nhở vềtính chất phi tự do và phản dân chủ của nền chính trị
Trung Quốc. Như vậy là, Schell và Delury đã chỉ rõ rằng các nhà lãnh đạo Đảng
Cộng sản Trung Quốc đang lèo lái đất nước theo con đường đã được vạch ra cách
đây hơn một trăm năm mươi năm, khi Trung Quốc vẫn còn là một đế chế và quan hệ
quốc tế trên thực tế có thể được mô tả như là vụ đụng độ của những kẻ chiếm
đoạt thuộc địa khổng lồ.Trung Quốc hình thành cách tiếp cận hiện nay với nền
chính trị trong nước cũng như quan hệ đối ngoại trong bối cảnh của thế kỷ XIX.
Giữa thế kỉ XIX chính Ngụy Nguyên là người đã định hình nhiều đề tài
nhằm xác định công việc của những nhà cải cách trong thế kỷ XX của Trung Quốc.
Khi chiến tranh nha phiến đầu tiên nổ ra, Ngụy [Nguyên] đang ở vị trí rất thuận
lợi cho việc quan sát những sự kiện đang diễn ra. Sau nhiều lần thất bại ở các
cuộc thiđình, mặc dù có sự nghiệp học tập ban đầu đầy hứa hẹn, ông làm tư vấn
cho quan chức ở tỉnh và tích lũy một gia tài nho nhỏ trong việc buôn bán muối ở
thành phố Dương Châu trên bờ sông Dương Tử. Năm 1842, ông đã thấy tàu chiến Anh chạy bằng hơi nước, sau khi tấn
công Thượng Hải đi qua đây. Ngụy [Nguyên] đưa ra những luận điểm kết hợp được
triết học Trung Quốc cổ đại với những kiến thức từ quan sát của chính ông về
quản lí nhà nước hiện đại và chiến tranh, đấy là phản ứng của ông trước thất
bại của Trung Quốc khi đối mặt với lực lượng của Anh chỉ có một vài ngàn người.
Ngụy [Nguyên] không sử dụng Khổng giáo, tức là tưtưởng truyền thống của Trung
Quốc, mà áp dụng trường phái cạnh tranh với nó, gọi là “Pháp gia.” Trong khi
Nho giáo coi “nhân, lễ và hài hòa xã hội” là “cơsở hợp pháp duy nhất và hiệu
quả cho việc quản lí xã hội,” thì Pháp gia lại nhấn mạnh nhu cầu “quốc phú,
binh cường” và từ đó mà có từ “phú cường”. Trong khi các nho sĩ cai trị bằng
đức hạnh thì Pháp gia khẳng định phải cai trị bằng luật pháp, mà pháp luật lại
được định nghĩa là một hệ thống những biện pháp khuyến khích do nhà cầm quyền
đưa ra nhằm đảm bảo sự trung thành của các thần dân. Schell và Delury viết:
“Những người ủng hộ đường lối chính trị thực tiễn ởnước Trung Quốc cổ đại không
có thái độ kiên nhẫn trước những thứ mà họ coi là ba láp về mặt đạo đức của Nho
gia. Vì họ chẳng mấy tin tưởng vào những ý định tốt của con người, cho nên họ
coi của cải và sức mạnh là thước đo cao nhất của thành công hay thất bại của
đường lối chính trị.”
Trong bối cảnh đó, đường lối chính trị thực tiễn là cách tiếp cận
hoàn toàn thực dụng, nhắm vào kết quả không chỉ đối với việc cai trị ở trong
nước mà còn nhắmđến quan hệ đối ngoại nữa. Như Schell và Delury nhận xét, Ngụy
[Nguyên] tin rằng các nước phương Tây, thí dụ như nước Anh, “thúc đẩy thương
mại bằng cáchđưa quân ra nước ngoài,” cho nên “binh lính và thương mại phụ
thuộc vào nhau.”Ý tưởng này đã ăn sâu vào tâm trí của giới tinh hoa Trung Quốc,
trong đó có cảTôn Trung Sơn. Ông này đã viết vào năm 1894 như sau:
Ở phương Tây, quyền lợi của nhà nước và quyền
lợi của thương mại cùng thăng tiến với nhau… Không có tiền thì quốc phòng không
thể hoạt độngđược, không có thương mại thì cũng không tích lũy được tiền cho
quân đội. Đấy là lý do vì sao người phương Tây sẵn sàng lao vào phần còn lại
của thế giới chẳng khác gì hổ báo và họ bắt nạt Trung Quốc cũng là vì thương
mại mà ra.
Việc Ngụy [Nguyên] nhấn mạnh của cải và sức mạnh và việc ông quan
tâm tới phái Pháp gia hay chí ít là thái độ hoài nghi của mình với đòi hỏi của
Nho gia về sự độc quyền trong việc nắm giữ những phương pháp cai trị tiên tiến
– có thể đã giúp ông chống lại những xung lực truyền thống của Trung Quốc, tức
là những xung lực muốn chối bỏ tất cả những gì ngoại lai, coi đấy là thấp kém
hơn so với Trung Hoa. Trong một chuyên luận viết về cuộc Chiến tranh Nha phiến
lần thứ nhất, Ngụy [Nguyên] khẳng định rằng Trung Quốc cần phải tích lũy của
cải và sức mạnh nhằm phục hồi sự vĩ đại của đế quốc. Nói cách khác, nước này
cần phải “tự lực tự cường” (Zixiu Ziqiang), mà chỉ có thể làm được bằng cách
“vay”, nghĩa là, mua lại và sao chép công nghệ của nước ngoài và thực hiện các
cuộc cải cách chính phủ ở trong nước. Ước muốn chiếm đoạt một số phương tiện
của phương Tây rồi sử dụng chúng cho mục tiêu tăng cường sức mạnh của Trung
Quốc nhằm chống lại phương Tây cùng với tinh thần thực dụng của phái Pháp gia
sẽ trở thành đềtài quan trọng của những nhà cải cách ở Trung Quốc. Cho rằng số
phận của các quốc gia yếu ớt là trở thành con mồi cho các nước mạnh hơn, Trung
Quốc phải làm việc để có nhiều của cải và sức mạnh; trong khi cần tôn trọng các
nước mạnh hơn, lại phải cố gắng học hỏi họ và làm cho họ suy yếu đi. Schell và
Delury chỉra rằng Ngụy [Nguyên] tán thành ý tưởng làm suy yếu các đối thủ
phương Tây bằng cách làm cho họ mâu thuẫn với nhau, “yiyi zhiyi” (dĩ di trị di
– lấy man di trịman di) vốn là mưu kế cổ xưa của Trung Quốc. Cuối cùng, tự
cường đòi hỏi thông tin tình báo về các quốc gia khác để xác định những vị trí
dễ bị tổn thương của họ, và có những biện pháp ngoại giao khéo léo nhằm phân
hóa hàng ngũ của kẻthù. Schell và Delury nói rằng Ngụy [Nguyên] lấy làm tiếc là
sau cuộc Chiến tranh Nha phiến lần thứ nhất nhà Thanh biết quá ít về quan hệ
đối ngoại trên thế giới để có thể khai thác những mối căng thẳng giữa một bên là
Anh và bên kia Pháp và Mỹ – mặc dù trên thực tế cả Pháp lẫn Mỹ đều đã nhiều lần
đề nghị trợ giúp vương triều.
Feng Guifen (Phùng Quế Phân), người kế tục di sản tinh thần của
Ngụy [Nguyên], dựa vào ý tưởng của Ngụy [Nguyên] về tự cường và sao chép “các
kỹ thuật và phương pháp”của các cường quốc bên ngoài. Tương tự như Ngụy
[Nguyên], Phùng [Quế Phân] đãđi hết con đường nhắm đến kì thi để được bổ nhiệm
làm quan văn, nhưng đã bịtrượt. Ông sống vào thời điểm có những biến động lớn,
đấy là cuộc Chiến tranh Nha phiến lần thứ hai và khởi nghĩa Thái Bình Thiên
Quốc. Schell và Delury chỉrõ câu hỏi mà Phùng [Quế Phân] đặt ra sau khi Trung
Quốc thua liên quân Pháp-Anh và cuộc nội chiến làm chết hai mươi triệu người và
đấy cũng là hồi chuông báo tử cho triều đại nhà Thanh: “Chúng ta có lãnh thổ
gấp tám lần nước Nga, gấp mười lần nước Mỹ, gấp một trăm lần nước Pháp, và hai
trăm lần nước Anh. Tại sao nước họ nhỏ mà lại mạnh, trong khi chúng ta lớn mà
lại yếu?” Phùng [Quế Phân] trả lời trong một bản tuyên ngôn năm 1860 có tên là
“Bất đồng chính kiến nhìn từ một túp lều ở
gần khu Bin”, làm người ta nhớ tới Ngụy [Nguyên]: “Nếu chúng ta lấy đạo đức và
học thuyết của Trung Quốc làm nền tảng, nhưng bổsung thêm những kỹ thuật của
nước ngoài để có của cải và sức mạnh, thì không phải là lý tưởng hay sao?” Đối
với những người vẫn còn hoài nghi, Phùng [QuếPhân] lập luận: “Nếu một hệ thống
không tốt, thì dù có là từ thời cổ đại, chúng ta cũng nên từ bỏ nó; nếu hệ
thống tốt thì chúng ta nên theo, ngay cả khi nó có xuất xứ từ những dân tộc kém
văn minh.”
Nhất quán với những khuyến nghị của Ngụy [Nguyên], cho rằng Trung
Quốc phải cải thiện hiểu biết của mình về các cường quốc bên ngoài (ví dụ, làm
cho họ mâu thuẫn với nhau), Phùng [Quế Phân] đề nghị nhà vua tài trợ cho người
Trung Quốcđi du học. Schell và Delury nhận xét rằng yêu cầu của ông được ủng hộ
bất chấp sự phản đối của những nhà Nho, tức là những người muốn bảo vệ nền học
vấn truyền thống của Trung Quốc. Hiện nay, Trung Quốc là nước có nhiều du học
sinh hơn bất kỳ nước nào khác, và Trung Quốc cũng là nước không nói tiếng Anh
có nhiều người học tiếng Anh nhất thế giới. Trong khi một số trong những nỗ lực
này là để phục vụ cho lĩnh vực ngoại giao và thương mại, thì phần nhiều là để tự
cường – nâng cao sức mạnh quân sự của Trung Quốc. Báo cáo mới đây của một
tổchức phi lợi nhuận có tên là Project 2049 Institute cho biết rằng đơn vị
quânđội Trung Quốc, nơi quản lí các nhóm điều khiển học, là nơi thu hút nhiều
nhất các nhà ngôn ngữ học được đào tạo kĩ lưỡng.
Thông điệp về tự cường của Phùng [Quế Phân] đã dẫn đến một phong
trào cải cách cùng tên ở Bắc Kinh, và năm 1896 một quan chức cấp tỉnh Zhang
Zhidong (Trương ChiĐộng) đã kiến nghị và được Từ Hi Thái Hậu cho phép thành lập
“đội quân đội tựcường.” Trong khi đó, việc Phùng [Quế Phân] ủng hộ tư tưởng của
Ngụy [Nguyên] về bắt chước phương Tây đã giúp đưa khái niệm này vào thực tiễn.
Như Schell và Delury nhận xét, Trương [Chi Động] đã tạo ra phương châm nổi
tiếng cho các nhà cải cách: “Lấy cái học của Trung Quốc làm cơ sở, lấy tri thức
phương Tây áp dụng vào thực tiễn.” Đầu thế kỷ XX, Tôn Trung Sơn đã sử dụng ngôn
ngữ tự cườngđể biện hộ cho việc áp dụng không chỉ kĩ nghệ phương Tây mà còn áp
dụng cả hình thức chính phủ mới nhất tức là chế độ cộng hoà và kêu gọi lật đổ
nhà Thanh:“Tương lai của Trung Quốc cũng giống như xây dựng một con đường sắt.
Vì vậy, nếu bây giờ chúng ta xây dựng một con đường sắt chúng ta sẽ sử dụng đầu
máy hơi nước được phát minh ngay từ ngày đầu tiên [tức là, luật lệ phong kiến]
hay sửdụng mô hình đã được cải tiến và hiệu quả nhất của ngày hôm nay?” Nhưng,
Tôn [Trung Sơn] cũng chỉ quan tâm tới chế độ cộng hoà về mặt thực dụng mà thôi.
Trong tuyên bố nổi tiếng năm 1924 về “Chủ nghĩa tam dân” của mình, bên cạnh
việc ủng hộ các quyền và quyền tự do, ông còn quan tâm tới sự thống nhất và
tinh thần tập thể nữa: “Các cá nhân không nên có quá nhiều tự do, nhưng quốc
gia phải được hoàn toàn tự do. Chỉ khi các quốc gia có thể hành động một cách
tự do thì Trung Quốc mới có thể được gọi là mạnh mẽ.” Sau này, Tôn [Trung
Sơn]đã ngưỡng mộ mô hình chính trị nước ngoài khác, đấy là chủ nghĩa Lenin, vì
nó thể tạo được kỷ luật trong đảng. Điều đó chứng tỏ rằng ông chỉ coi chế độ
cộng hòa là một công cụ, là biện pháp chính trị mới, nhiều hứa hẹn nhất, có thể
áp dụng nhằm phục vụ cho bản chất của Trung Quốc.
Tư tưởng cuối thời nhà Thanh và thời kỳ Cộng hòa có ảnh hưởngđối
với các chính trị gia của Trung Quốc, kể từ Mao [Trạch Đông] và người kếtục sự
nghiệp của ông ta là Đặng Tiểu Bình và các thế hệ quan chức hiện nay củaĐCSTQ.
Tất cả những người đó đều đã nói đến khai thácxiyong(chức năng phương
Tây) trong khi vẫn giữzhongti(bản chất Trung Quốc). Mao [TrạchĐông]
thường nói về áp dụng chủ nghĩa Mác vào hoàn cảnh của Trung Quốc, Đặng Tiểu
Bình chủ trương nhập khẩu bí quyết kinh tế thị trường của phương Tây đểxây dựng
chủ nghĩa xã hội “mang màu sắc Trung Quốc”, còn thế hệ những người ủng hộ cách
tiếp cận này hiện nay lại nhấn mạnh việc “vay mượn” công nghệ và kĩthuật quân
sự của phương Tây. Bằng chứng là những nỗ lực to lớn của Trung Quốc nhằm chiếm
đoạt sở hữu trí tuệ của Mỹ bằng gián điệp mạng và những hình thức do thám
truyền thống khác. Người ta nói rằng bắt chước là cách nịnh hót chân thành
nhất; nhưng trong trường hợp này, bắt chước phải được coi là bằng chứng của một
tham vọng nhất quán và lâu dài của nhiều người trong giới tinh hoa của Trung
Quốc. Một lần nữa, mục tiêu không phải là trở thành như Hoa Kỳ, tức là chế
độdân chủ và là người ủng hộ hệ thống quốc tế thời hậu chiến (Chiến tranh Thế giới
II). Mà là bảo vệ quyền lực của ĐCSTQ và làm cho Trung Quốc trở thành mạnh mẽ
để Bắc Kinh có thể thiết lập trật tự toàn cầu mới theo cách của họ.
Trật tự thế giới do Trung Quốc áp đặt sẽ như thế nào? Chi tiết còn
khá mù mờ, nhưng vẫn có thể xác định được những khác biệt với trật tự hiện
hành. Không những không bắt đầu bằng nhân phẩm của cá nhân và bảo đảm cho tất
cả mọi người một số quyền cơ bản, được pháp luật bảo vệ, trật tự do Trung Quốc
áp đặt sẽ dựa trên tiền đề là sự tồn tại của tập thể và ưu tiên cho sự ổn định
của nó. Nếu Washington thúcđẩy tự do thì Bắc Kinh sẽ thay thế bằng mục tiêu Đại
Đồng (Đại Hài hòa hoặc ĐạiĐoàn kết). Tính chất phi chính thống của cách tiếp
cận của Ngụy Nguyên đối với Khổng giáo một phần là do ông tin rằng lịch sử
không diễn biến theo chu kỳ, với những thăng trầm của các triều đại, mà lịch sử
đi theo đường thằng, hướng tới một kỷ nguyên không tưởng “Đại Hài hòa.” Schell
và Delury giải thích rằng Ngụy [Nguyên] thuộc về trường phái các nhà tư tưởng
cho rằng thậm chí chính Khổng Tửcũng hiểu lịch sử như thế và đã bí mật cho phép
sử dụng phương pháp chính trịthực dụng nhằm “giữ cho thế giới có trật tự” cho
đến khi có được Đại Đồng. Cùng với quan niệm về tự cường và những đòi hỏi của
nó, quan điểm của Ngụy [Nguyên] về chính sách thực dụng như là phương tiện và
Đại Đồng là mục tiêu tiếp tục tồn tại sau khi Ngụy [Nguyên] qua đời.
Vào cuối thế kỷ XIX, Trung Quốc gặp thất bại nặng nề nhất từ trước
tới lúc đó, họ đã thua Nhật Bản trong Chiến tranh Trung – Nhật lần thứ nhất.
Tại đỉnh điểm của vụ chấn thương này, một học giả và cũng là nhà cải cách, ông
Lương Khải Siêu, người kế tục Ngụy Nguyên và Phùng Quế Phân, đã chấp bút lời
nói đầu cho lần xuất bản mới tác phẩm về phái Pháp gia và nghệ thuật trị nước
của Ngụy [Nguyên]. Ông viết: “Những người tiếp thu cái mới sẽ thịnh vượng và
phát triển mạnh mẽ. Còn những người đóng khung trong cái cũ sẽ suy giảm và yếu
đi.” Thầy của Lương Khải Siêu, ông Khang Hữu Vi, cố vấn cho cháu trai của Từ Hi
Thái Hậu khi bà từ bỏ ngai vàng trong 102 ngày trong năm 1898, xuất bản trong
cùng nămđó tác phẩm lấy tên là Đại Đồng Thư. Ngay cả Khang [Hữu Vi] người đã
từng tưvấn cho vị hoàng đế nhà Thanh yếu đuối về những biện pháp cải cách và
củng cố chế độ, cũng vẫn phù phép ra một tác phẩm về sự hài hòa không tưởng.
Khang [Hữu Vi] cùng trong trường phái học thuật tương tự như Ngụy Nguyên và
chấp nhận tính chất tuyến tính của lịch sử, cũng như mục tiêu cuối cùng của Đại
Đồng và lợi ích của chính sách thực tiễn trong giai đoạn quá độ. Mao [Trạch
Đông] sau đó nói với Edgar Snow, một nhà báo phương Tây có cảm tình với ông,
rằng ông rất mê Lương [Khải Siêu] và Khang [Hữu Vi] và hồi thanh niên đã “đọc
đi đọc lại những cuốn sách đó cho đến khi thuộc lòng mới thôi.” Một nhà chính
trị học được đào tạo ở Trung Quốc, nhưng sống ở Kentucky, là ông Shiping Hua,
nhận xét rằng các nhà lãnh đạo sau này của ĐCSTQ vẫn kiên trì coi Đại Đồng là
lí tưởng, nhưng lại theo đuổi những mục tiêu khác vì đấy là những mục tiêu dễ
thực hiện hơn trong giai đoạn hiện nay. Ông khẳng định: “Việc người ta vẫn coi
Đại Đồng là lí tưởng cho thấy rằng sự tiến hóa của Trung Quốc theo mô hình chủ
nghĩa tư bản dân chủtự do phương Tây là khó có thể xảy ra.” Việc các thế hệ kế
tiếp nhau trong giới tinh hoa của ĐCSTQ, trong đó có cả những người phản đối tư
tưởng Khổng giáo của Mao [Trạch Đông], thỉnh thoảng lại nhắc tới tư tưởng Đại
Đồng cho thấy truyền thống cố hữu của Trung Quốc, tức là truyền thống đặt tập
thể lên trên cá nhân và ủng hộ chính sách thực tiễn cả trong lĩnh vực đối nội
cũng như đối ngoại –trong khi chờ đợi ngày Đại Đồng chưa ai biết bao giờ sẽ
tới.
Mặc dù trọng tâm của các nhà cải cách cuối thế kỷ XIX của Trung
Quốc là hiện đại hoá và lập trường chung của họ là bài Nho giáo, Đại Đồng không
phải là nguyên tắc Nho giáo cổ điển duy nhất được họ phục hồi. Các học giả và
các nhà hoạt động như, Ngụy [Nguyên] và Phùng [Quế Phân] cũng nhấn mạnh giá trị
đạo đức truyền thống của Nho giáo về sự sỉ nhục và coi đó là sức mạnh hiện đại
hoá. Ngụy [Nguyên] thường nhắc câu cách ngôn của Khổng giáo: “Nhục làm người ta
phải cố gắng, khi đất nước đang bị sỉ nhục, tinh thần của nó sẽ thăng hoa”. Còn
Phùng [Quế Phân] thì viết: “Khi người ta cảm thấy xấu hổ, không có gì là tốt
hơn là tự cường.” Tương tự như Đại Đồng, ở Trung Quốc hiện nay đề tàisỉ(xấu
hổ hay sỉ nhục) vẫn thường xuyênđược nói tới. Năm 1927, Tưởng Giới Thạch – kế
nhiệm Tôn Trung Sơn, lãnh đạo Quốc Dân Đảng – lập ra ngày Quốc nhục, hiện nay
ngày lễ đó vẫn được kỉ niệm. Như Schell và Delury đã chỉ ra, nhiều điểm du lịch
được du khách nội địa Trung Quốc đến nhất là những nơi tưởng niệm những giai
đoạn thất bại và tàn phá Trung Quốc bởi bàn tay của các lực lượng phương Tây và
Nhật Bản. Ở những địa điểm này người ta giải thích lịch sử một cách rất tùy
tiện. Bảo tàng Chiến tranh Nha phiến do nhà nhà nước quản lí là một ví dụ, ở
đây, do sai lầm mà người ta đưa cả Hoa Kỳ vào hàng ngũ đối thủ của Trung Quốc.
Chế độ thường xuyên nhắc tới nỗi nhục quốc thể và viết lại lịch sử để kích động
người dân cho cuộc đấu tranh không phải là chế độ sẵn sàng công nhận các quyền
công dân hay tôn trọng trật tự quốc tế hiện hành.
Mặc dù nhiều người trong số những nhân vật được Schell và Delury
nhắc đến đã coi dân chủ là nguồn sức mạnh của phương Tây và do đó cũng coi nó
là một phương tiện, nhưng không có ai trở thành nhà dân chủ hết, trừ ông Lưu
Hiểu Ba, hiện đang bịtù và dường như không có nhiều thính giả ở Trung Quốc lắng
nghe ông. Mặc dù Phùng Quế Phân ngưỡng mộ cuộc bầu cử năm 1860 của Abraham
Lincoln, nhưng ông ta, theo lời của Schell và Delury, là “nhà độc tài chấp nhận
sự tham gia của dân chúng” chứ không phải một người dân chủ. Ban đầu Lương Khải
Siêu ủng hộ dân chủ, nhưng sau đó lại quyết định rằng Trung Quốc chưa sẵn sàng.
Như đã nói, mặc dù Tôn Trung Sơn ủng hộ tư tưởng cộng hòa, nhưng ông chưa bao
giờ chấp nhận hoàn toàn khế ước của xã hội tự do và cuối cùng đã ngưỡng mộ tổ
chức đảng Lênin. Tưởng Giới Thạch cũng được đúc từ cái khuôn đó: “Trong những
bài nói và bài viết của mình, Tưởng [Giới Thạch] thường xuyên nhắc tới ‘dân chủ
lập hiến’,và ‘tự do’,” Schell và Delury viết, “nhưng ông ta làm thế cũng giống
như Tôn [Trung Sơn]… Đối với ông ta, đây là những khát vọng mơ hồ và xa vời,
không quan trọng bằng cuộc đấu tranh trước mắt của Trung Quốc để sống còn và
đổi mới quốc gia.” Chỉ là ve vãn chứ không bao giờ thực sự chuyển sang những
nguyên tắc của chế độ dân chủ tự do. Vì vậy mà câu hỏi về của cải và sức mạnh
đặt ra là liệuước muốn tìm kiếm uy tín quốc tế của các nhà lãnh đạo của Trung
Quốc có dẫn họ đến quá trình dân chủ hóa hay không dường như là biểu hiện của
tinh thần lạc quan chứ không phải là một dự báo mang tính thực tế đối với tương
lai của Trung Quốc.
Một tầm nhìn khác về tương lai của Trung Quốc có xuất xứ từ một
nguồn ít người biết, được Schell và Delury nhắc tới, nhưng hai ông này đã không
nghiên cứu một cách kĩ lưỡng. Đấy là bài viếtBàn về các cường quốc trên biểncủa
Ngụy Nguyên, xuất bản vào năm 1843, bốn tháng sau Hòa ước Nam Kinh, trong đó
cóđiều khoản các tàu chiến của Anh rút khỏi sông Dương Tử. Trong tiểu luận này,
Ngụy [Nguyên] trình bày về sự tương thuộc giữa sức mạnh quân sự và thương mại
của nước Anh. Nhưng, như học giả Jane Kate Leonard nhận xét, Ngụy [Nguyên] đã
làm được nhiều hơn là dự báo những thành tựu của nước Anh. Ông đã đưa ra cả một
chương trình cụ thể nhằm hiện đại hóa hải quân và chiến lược địa chính trị của
Trung Quốc. Có thể thấy những thành tố của chương trình này trong bản kế hoạch
của chính phủ ban hành năm 1980, cho nên trong mấy thập niên vừa qua người
Trung Quốc đã theo sát những khuyến nghị Ngụy [Nguyên].
Ngụy [Nguyên] bắt đầu từ ý tưởng cho rằng các quốc gia phương Tây
có sức mạnh là vì họ có một mạng lưới các căn cứ, tạo điều kiện cho họ khống
chế giao thông và thương mại trên biển. Ông nói tới không chỉ những hải cảng
của Anh ở châu Phi, Ấn Độ, ở Tích Lan và Singapore, có thể khống chế eo biển
Malacca, mà còn đề cập tới những căn cứ của Hà Lan ở Batavia, có đủ khả năng
tiếp cận eo biển Sunda nằm giữa đảo Java và đảo Sumatra. Ông kết luận rằng
Trung Quốc không bị đe dọa xâm lược ngay lập tức, nếu các cường quốc phương Tây
chưa thâm nhập vào lục địaĐông Nam Á, Nepal hay Nhật Bản. (Nếu sống đủ lâu,
Ngụy [Nguyên] có thể đã được chứng kiến cuộc tấn công của Nhật Bản vào Đông Nam
Á ngay từ đầu Thế chiến II, như khúc dạo đầu của cuộc xâm lược của Nhật Bản vào
Trung Quốc và do đó khẳngđịnh đánh giá của ông là chính xác.) Nghĩa là, Ngụy
[Nguyên] tin rằng mạng lưới các căn cứ của phương Tây trong khu vực rõ ràng
đang làm mất ổn định của trật tự – làm thiệt hại cho Trung Quốc – và đặt phương
Tây vào vị trí có thể đe dọađược bờ biển của Trung Quốc. Trên cơ sở phân tích
như thế, tiểu luận của Ngụy [Nguyên] trình bày rõ đường lối hành động cả về
quân sự lẫn ngoại giao nhằm tăng cường sức mạnh của Trung Quốc.
Tiểu luận này khuyến cáo rằng Trung Quốc phải tập trung nỗ lực
ngoại giao vào khu vực Đông Nam Á lục địa, đặc biệt là Việt Nam, Thái Lan và
Campuchia, cũng nhưNhật Bản, nước mà sau này đã chứng tỏ khả năng đẩy lui được
phương Tây trong cuộc chiến tranh Nga-Nhật năm 1904-1905, và Nepal. Theo logic
dĩ di trị di, Ngụy [Nguyên] cho rằng Bắc Kinh nên xúi giục các nước bên ngoài
đối đầu với nhau và dùng ngoại giao để làm suy yếu các nước chư hầu. Ví dụ, ông
đề nghị tìm cách cân bằng sự hiện diện của Anh tại Hồng Kông bằng cách cho Pháp
và Mỹ tiếp cận tới Quảng Châu (lúc đó gọi là Canton). Ông cũng đề nghị t́m kiếm
sự ủng hộcủa Nga nhằm đối chọi với các nước phương Tây khác – đến mức có thể
khuyến khích Nga hành động chống lại Anh ở Afghanistan và tây bắc Ấn Độ, tức là
những hành động có thể tạo điều kiện cho người Nepal tiêu diệt người Anh ở
Bengal. Một chuỗi các sự kiện như vậy sẽ làm cho vị trí của Anh ở Singapore yếu
đến mức Thái Lan cùng với Việt Nam có thể tấn công.
Đã 170 năm kể từ khi Ngụy [Nguyên] chấp bút bản kế hoạch này, thế
giới và bản đồ thếgiới đã thay đổi hoàn toàn. Nhật Bản đã nằm trong liên minh
với Hoa Kỳ từ năm 1945, người Anh không còn cai trị Hồng Kông và Ấn Độ nữa. Anh
cũng không còn ởAfghanistan và không phải là quốc gia phương Tây mà Trung Quốc
phải lo ngại nhất nữa. Nhưng những kiến nghị của Ngụy [Nguyên] thì vẫn được một
số người ủng hộ và dường như đấy chính là lời giải thích cho những quyết định ngoại
giao gầnđây của Trung Quốc. Chỉ cần xem xét cuộc tấn công nhằm thu phục nhân
tâm của Trung Quốc ở vùng Đông Nam Á trong mấy thập niên qua và sự xâm nhập vào
khu vựcảnh hưởng truyền thống của Ấn Độ, trong đó có Nepal thì sẽ rõ. Cũng chớ
bỏ qua quan hệ dường như thắt chặt của Bắc Kinh với Moscow, tức là mối quan hệ
nhằm ngăn chặn các đối thủ tiềm năng khác cơ hội thiết lập với Nga liên minh
chống Trung Quốc. Cuối cùng, dường như có sụ tương đồng với luận cứ của Ngụy
[Nguyên] về áp lực lên những căn cứ của Anh ở những khu vực khác của châu Á sẽ
mang lại lợi ích cho Trung Quốc tại các lân bang của họ. Trong khuôn khổ những
nỗ lực của Bắc Kinh nhằm tạo ra một loạt các đối tác ở Trung Đông và
Afghanistan, trong đó có những nước thù địch với Mỹ, dường như có thể dùng Mỹ
thay thế cho Anh và Trung Đông thay thế cho Ấn Độ và chúng ta sẽ được một logic
gián tiếp giống hệt nhau – cần phải chuyển hướng và làm suy yếu cường quốc mạnh
nhất, đe dọa nhiều nhất những tham vọng ở Đông Á của Trung Quốc.
Bên cạnh chiến lược ngoại giao, Ngụy [Nguyên] còn đưa ra một số
khuyến nghị về hiện đại hóa hải quân, còn gần gũi hơn nữa với quá trình hiện đại
hóa quân đội Trung Quốc trong mấy thập kỷ vừa qua. Kế hoạch chi tiết bắt đầu
bằng những biện pháp củng cố lực lượng bảo vệ bờ biển của Trung Quốc trong thời
gian trước mắt. Sauđó là khả năng phòng thủ lâu dài, cùng với việc cải tổ quân
đội và thúc đẩy sự đổi mới từ bên trong. Cuối cùng, đất nước sẽ sẵn sàng xuất
hiện như một cường quốc hải quân nghiêm túc – đủ sức bảo vệ các hải cảng chính,
có một mạng lưới các căn cứ được tăng cường, mua và phát triển công nghệ quân
sự tiên tiến, triển khai một lực lượng hải quân nhỏ hơn nhưng chất lượng tốt
hơn so với trướcđây. Kể từ đầu những năm 1980, Hải quân của Quân Giải phóng
Nhân dân (PLAN) đã theo đuổi chiến lược đúng như quan niệm của Ngụy [Nguyên].
Những thế hệ lãnhđạo kế tiếp nhau của PLAN đã liên tục tăng cường từ việc bảo
vệ các hải cảng của Trung Quốc đến gia tăng tầm hoạt động (tính từ bờ biển) và
khả năng ngăn chặn của Trung Quốc. Thuật ngữ dành cho cho nỗ lực này là “chuỗi
đảo”, chuỗi đảo“thứ nhất” tiếp giáp với Okinawa, Đài Loan và Philippines,
“chuỗi đảo thứ hai” tiếp giáp với Ogasawara, Guam và Indonesia. Theo quan điểm
này, mục tiêu cuối cùng của PLAN sẽ là biển Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương nằm
dưới sự bảo vệ của các tàu sân bay mới của nước này.
Trung Quốc cũng đã triển khai tên lửa với độ chính xác có thể nhắm
tới những mục tiêu trên đảo Guam, và những đánh giá mới nhất từ những nguồn
công khai cho thấy rằng nước này chuẩn bị bắn được những mục tiêu di động cách
bờ đến ba ngàn cây số,tức là nằm trên chuỗi đảo thứ hai. Trong khi đó, tàu sân
bay đầu tiên của Trung Quốc hoàn thành thử nghiệm bay, mấy chiếc tàu sân bay
mới cũng đang được xây dựng. Cuối cùng, toàn bộ quân đội Trung Quốc đang giảm
biên, đấy là một phần của nỗ lực nhằm tăng cường chất lượng thông qua việc mua
các công nghệ mới, cùng với việc cải tiến công tác đào tạo và chính sách cán
bộ.
Chắc chắn là hiện đại hóa quân đội không phải là công việc duy
nhất đáng quan tâm của Trung Quốc hiện nay, nhưng dự đoán tương lai của Trung
Quốc mà bỏ qua nó thì sẽ là việc làm hấp tấp. Schell và Delury làm được một
công việc tuyệt vời trong quá trình khám phá những tư tưởng và sự nghiệp của
các nhà cải cách chủchốt và các nhà lãnh đạo của Trung Quốc trong thế kỷ XIX và
XX, và bao gồm thời kỳ cuối triều đại Mãn Thanh, trong đó có bàn về Lý Hồng
Chương và Tăng Quốc Phiên, người chỉ huy lực lượng tự cường được Từ Hi Thái hậu
sủng ái. Nếu nỗ lực tự cường trong thế kỷ XXI của Trung Quốc tiếp tục được thực
hiện theo kế hoạch, tức là tập trung vào cả sức mạnh kinh tế và quân sự, thì
lần xuất bản tiếp theo của tác phẩm này phải có thêm những học giả trong lĩnh
vực quân sự, thí dụ như Phó Đô đốc Lưu Hoa Thanh (ông này được người ta coi là
Alfred Thayer Mahan của Trung Quốc, năm 1982 chính ông là người đưa ra chiến
lược chuỗi đảo). Trong khi đó – theo logic của Schell và Delury – chúng ta có
thể nói dứt khoát rằng, nếu Trung Quốc tiếp tục đi theo quỹ đạo hiện tại của nó
trong quá trình phát triển kinh tế và quân sự thì nước này sẽ trở thành một
diễn viên táo bạo hơn trên trường quốc tế chứ không phải là một nước dân chủ
hơn hay có trách nhiệm hơn.
………
Jacqueline Newmyer Deallà chủ tịch kiêm tổng giám đốc công ty tư
vấn quốc phòng có tên là Long Term Strategy Group trụ sở ở Washington và là
cộng tác viên cao cấp Viện Nghiên cứu chính sách đối ngoại (Foreign Policy
Research Institute).
Giới
thiệu tác phẩmCủa cải và sức mạnh:
Cuộc trường chinh của Trung Quốc vào thế kỉ XXI(Wealth and Power: China’s Long March to the Twenty-First Century),(New
York: Random House, 2013), 496 tr.,của Orville Schell và John Delury.
Phạm Nguyên Trường dịch
Nguồn:Tracing China’s Long Game Plan/National
Interest, tháng 9-10 năm 2013
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét