Thứ Ba, 15 tháng 4, 2014

Hồ Gươm

 Geoff A.Dyer
Đào Anh Dũng dịch
Lần đầu tiên tôi đến thăm Việt Nam là với tư cách khách du lịch; trong một hai ngày gì đó, tôi và vợ đã tới những nơi có lẽ là chúng tôi biết nhiều nhất ở Hà Nội. Chúng tôi tản bộ dọc các con phố lớn - vẫn song hành với những hàng cây mà Pháp đã trồng khi còn là thế lực thực dân, và có một buổi chiều thư giãn trong các quán cà-phê mặt phố. Khách sạn chúng tôi ở, Metropole, là một công trình thời thực dân trông rất ấn tượng với mặt tiền màu trắng, cánh cửa sổ màu xanh lá cây, và ốp gỗ vốn là điểm nhấn của xã hội Pháp ở Hà Nội vào những năm 1920 và 1930. Khách sạn rất tự hào với bánh sừng bò sạch được nướng cho bữa sáng. 

Ngày tiếp theo, chúng tôi tới "Hanoi Hilton" hay nhà tù Hỏa Lò, nơi John McCain đã ở khoảng 5 năm rưỡi với tư cách một tù nhân chiến tranh, sau khi máy bay của ông ấy bị bắn hạ trong Chiến tranh Việt Nam. Nhà tù ban đầu do Pháp xây dựng, nhưng Bắc Việt đã dùng nó như một trong những địa điểm chính để tạm giữ các binh lính Mỹ bắt được. Bây giờ nó là một bảo tàng, trên tường treo những tấm ảnh McCain, với mái tóc đã sớm bạc trong điều kiện bị giam cầm. 
Mất khoảng một  ngày để chúng tôi kiểm nghiệm lại vài điều mà chúng tôi có lẽ đã biết nếu tò mò hơn một chút trước khi đến Việt Nam. Dù không ít người Việt Nam vẫn căm ghét chủ nghĩa thực dân Pháp, và dù vài triệu người đã chết trong cuộc chiến với Mỹ, thì đấy rốt cuộc cũng là những sự kiện đã qua trong một lịch sử dài lâu hơn nhiều để bảo vệ chủ quyền đất nước. Trong lịch sử dài lâu hơn đó, kẻ thù chủ yếu là Trung Quốc. Cách khách sạn chúng tôi ở nửa dặm là hồ Hoàn Kiếm, một cái ao long lanh đầy hoa súng, tạo thành điểm nhấn cho trung tâm thành phố. Nó cũng là một đài tưởng niệm nhạt nhòa về cuộc chiến chống lại Trung Quốc. Cái tên Hồ Gươm nghĩa là "Hồ trả lại Gươm", liên hệ với truyền thuyết rằng Hoàng đế Lê Lợi đã được trao một thanh gươm thần và dùng để đánh đuổi quân Trung Quốc xâm lược, suốt triều đại nhà Minh ở đầu thế kỷ 15. Gần bờ phía Đông có một đảo nhỏ với lối vào là một cây cầu đỏ. Nó tên là đền Ngọc Sơn, được xây cách đây 200 năm để tôn vinh một vị tướng ở thế kỷ 13 đã góp công đánh bại triều đại nhà Nguyên của Trung Quốc. Cách đó 2 dặm là khu phố Hai Bà Trưng, được đặt tên theo hai chị em gái đã dẫn đầu cuộc khởi nghĩa chống ách cai trị của Trung Quốc ở thế kỷ đầu tiên sau Công Nguyên. Khi chúng tôi nói rằng mình đã sống ở Trung Quốc thì một vài người ngay lập tức kể cho chúng tôi nghe Trung Quốc đã xâm lược Việt Nam bao nhiêu lần, dù họ thỉnh thoảng đưa ra các con số khác nhau. 
Trong biên niên sử đế chế của Trung Quốc, Việt Nam là một nước vuột  khỏi tay. Tới thế kỷ 2 trước Công Nguyên, triều đại nhà Hán đã đánh chiếm phần lớn diện tích Việt Nam hiện nay, và Trung Quốc vẫn kiểm soát Việt Nam suốt gần 1000 năm tiếp đó. Cuối cùng Việt Nam cũng tự vùng thoát khỏi cái ôm của Trung Quốc, song lịch sử dài đó để lại Trung Quốc những dấu vết về tâm thế làm chủ Việt Nam. Một chú thích tại Bảo tàng Lịch sử Thiểm Tây ở Tây An, nơi có một trong những bộ sưu tập đồ cổ quý giá nhất của Trung Quốc, ghi: "Cho tới cách đây 200 năm, Việt Nam vẫn là một phần của Trung Quốc, và thậm chí hiện nay trong các ngôi nhà của Việt Nam bạn vẫn có thể thấy những chữ Trung Quốc". Giống như mọi câu chuyện lịch sử loại đó, mối liên hệ Việt Nam-Trung Quốc đầy tình tiết phức tạp và những sự đứt đoạn. Mặc dù chiến thắng của Lê Lợi ở thế kỷ 15 trước quân Minh xâm lược đã củng cố nền độc lập của Việt Nam, song vài thập kỷ sau chiến thắng của ông ấy lại là giai đoạn hưng thịnh nhất của văn hóa Nho Giáo tại Việt Nam. Nhưng những điểm du lịch tại Hà Nội lại cho thấy rõ giai đoạn hưng thịnh ấy - một lát cắt đáng kể của cá tính Việt Nam hiện đại, đã bắt rễ trong các cuộc đấu tranh gìn giữ sự tự chủ trước Trung Quốc. Theo một nghĩa nào đấy thì những lo ngại dấy lên ở Việt Nam trước sự trỗi dậy của Trung Quốc là đối lập trực tiếp với phản ứng ở Australia. Trong khi Australia sợ cái kết của một thời đại lịch sử mà họ được hưởng lợi, còn Việt Nam sợ sự tái diễn một hình mẫu lịch sử cũ mà họ muốn tránh. 
Vì thế Việt Nam là một trong những đường phay thú vị nhất bên cạnh sự trỗi dậy của Trung Quốc. Trong các quốc gia trên thế giới, Việt Nam là nước có hệ thống chính trị giống Trung Quốc nhất - với một đảng toàn quyền vẫn theo những nguyên lý của Lenin song từ bỏ Marx, và chào đón thị trường với mong muốn hiện đại hóa nền kinh tế và xã hội. Sự gắn bó giữa hai Đảng Cộng Sản là sâu bền. Có một cái gì đó rất đáng sợ khi mà tinh thần đoàn kết chính trị anh em, mà Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc ông Dương Khiết Trì đang kêu gọi ấy, lại xuất hiện trong bài công kích của ông ấy ở Hà Nội. Việt Nam cũng biết rằng nền kinh tế Trung Quốc là một trong những động cơ phát triển tiềm năng nhất và có thể truyền lực giúp Việt Nam thịnh vượng. Các khoản đầu tư công khổng lồ ở Tây-Nam Trung Quốc đang mở ra những liên kết đường bộ và đường sắt xuống phía Bắc Việt Nam, thúc đẩy quan hệ kinh tế còn tiến xa hơn nữa. Một đường tàu cao tốc sẽ sớm nối Hà Nội với Nam Ninh - thủ phủ tỉnh biên giới Quảng Tây. Thế nhưng, Việt Nam là quốc gia mà hành động giương oai sức mạnh vĩ đại của Trung Quốc khiến nỗi sợ hãi đang có càng sâu sắc hơn bất kỳ nơi nào khác, khi mà một thời đại địa-chính trị mới lại xung đột với một số câu chuyện lịch sử rất cũ ở châu Á. Vì thế Việt Nam là một phong vũ biểu quan trọng cho sự giận dữ dâng cao ở châu Á chống lại Trung Quốc và cho cán cân quyền lực phức tạp đang dần định hình ở châu Á. Hà Nội tin rằng họ có thể vừa hợp tác phát triển nền kinh tế của mình với Trung Quốc, vừa tìm ra những người bạn mới để kiềm chế Trung Quốc. Việt Nam đang làm việc nhằm đạt được cả hai điều ấy. 
Trung Quốc phủ bóng lo ngại lên mọi vấn đề của Việt Nam. Cũng như Trung Quốc, Việt Nam có các tuyên bố chủ quyền quan trọng ở biển Nam Trung Hoa, gồm cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Hà Nội cũng theo dõi, với nỗi lo sợ đang lên, sự tăng cường hải quân của Trung Quốc. Với Việt Nam, tranh chấp lãnh thổ ở biển Nam Trung Hoa quan trọng hơn nhiều so với việc chỉ kiểm soát một số đảo. Trừ Chile, Việt Nam là nước kiểm soát nhiều diện tích nhất, tính theo đường bờ biển dài 3620 km - một số người Việt Nam mô tả vị trí của họ như "một cái ban công nhìn ra Thái Bình Dương". Kế hoạch kinh tế dài hạn của Việt Nam nói sẽ thu 50% GDP từ các hoạt động trên biển, bao gồm đánh bắt hải sản và khai thác tài nguyên tự nhiên trong vùng mà họ tuyên bố chủ quyền. Số phận khiến những bãi đá và bãi cạn ở biển Nam Trung Hoa chen vào giữa cái nhìn của Việt Nam về tương lai kinh tế của mình. 
Các nhà lãnh đạo Việt Nam cũng chịu rủi ro thường trực khi bị lên án rằng bán đất cho Trung Quốc. Sau khi các tàu Trung Quốc cắt cáp 2 tàu thăm dò dầu khí của Việt Nam vào giữa năm 2011, những cuộc biểu tình lớn chống Trung Quốc đã nổ ra ở cả Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Lo sợ bị chỉ trích vì nhượng bộ Trung Quốc, các nhà cầm quyền Việt Nam để cho biểu tình tiếp diễn vào mỗi Chủ Nhật trong suốt 12 tuần - đó là khoảng thời gian rất dài cho các cuộc biểu tình ở một đất nước độc-đảng. Những người biểu tình đã mặc áo phông và đội mũ lưỡi trai với biểu tượng "No-U" - liên hệ tới bản đồ của Trung Quốc về biển Nam Trung Hoa. Những người khác giương cao khẩu hiệu "Nói không với đường lưỡi bò". Có lần đoàn biểu tình bị dập tắt bởi nhà cầm quyền, thì sau đó một số người lập ra câu lạc bộ bóng đá "No-U" chơi vào mỗi Chủ Nhật. 
Những đường phay của chủ nghĩa dân tộc chống Trung Quốc cắt ngang trật tự Việt Nam. Năm 2011, 20 gương mặt nổi tiếng trong xã hội Việt Nam - họ tự gọi mình là "những người yêu nước" - đã gửi một bức thư tới Bộ Chính Trị đưa ra quan điểm rằng Hà Nội đã "quá mềm yếu" trước Trung Quốc. Họ gồm có thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, người từng là đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc. Ông Vĩnh cũng là nhà chỉ trích công khai về dự án khai thác gây tranh cãi của Trung Quốc ở khu vực Tây Nguyên - rõ ràng là cái cột thu lôi những sợ hãi về sự thống trị kinh tế của Trung Quốc. Ông Vĩnh tham gia phản đối bên cạnh một gương mặt còn danh tiếng hơn nhiều, đó là tướng Võ Nguyên Giáp - nhà cầm quân tối cao trong chiến thắng Pháp tại Điện Biên Phủ năm 1954 và trong cuộc chiến chống Mỹ, khiến ông ấy trở thành một trong những chân dung quân sự nổi tiếng nhất của Việt Nam. Trong giới lãnh đạo Việt Nam cũng có nhân tố hậu thuẫn Trung Quốc, và một vài nhà lãnh đạo cao cấp nhất được cho là ủng hộ Bắc Kinh. Thế mà các nhà phân tích nói rằng cả trong Đảng Cộng Sản Việt Nam lẫn trong quân đội đều có những thành viên trẻ muốn gắn bó hơn với Mỹ. Quan điểm chống Trung Quốc còn mạnh mẽ hơn nữa trong những cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, đặc biệt là ở Mỹ. Theo một vài nghĩa nào đó, cảnh tượng ác mộng đối với các nhà lãnh đạo Việt Nam là khi những lực lượng này xích lại gần nhau do tranh chấp với Trung Quốc - chủ nghĩa dân tộc rộng khắp, nhân tố chống Trung Quốc nằm trong giới tinh hoa và một bộ phận đáng kể người Việt Nam ở nước ngoài. Một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng với Trung Quốc có thể kéo theo một thách thức chết người cho tính chính danh của Đảng Cộng Sản Việt Nam. 
Phản ứng của Việt Nam trước hành xử của Trung Quốc là không có gì đáng ngạc nhiên: vấn đề lại trở về các vùng biển. Hà Nội không có nguồn lực để xây dựng lực lượng hải quân đáng kể, mặc dù ngân sách quốc phòng tăng nhanh nhưng họ chỉ có thể mua những trang thiết bị vũ khí giúp họ trở thành thách thức "bất cân xứng" với Trung Quốc. Năm 2009, Việt Nam đã đặt mua 6 tàu ngầm lớp Kilo từ Nga - được hải quân Mỹ mệnh danh là "hố đen" bởi lớp vỏ cao su đặc biệt cho phép nó tránh bị phát hiện bởi kỹ thuật sonar. Những tàu ngầm này sẽ giúp Việt Nam giám sát các động thái của những tàu Trung Quốc trong các vùng tranh chấp và ngăn chặn bất kỳ nỗ lực nào của Trung Quốc hòng chớp lấy các đảo mà Việt Nam đang chiếm giữ. Để có thể hình dung về thách thức quân sự nghiêm trọng mà Việt Nam gặp phải từ phía Trung Quốc, cần thấy rằng đề nghị mua tàu ngầm được đưa ra trong tâm bão khủng hoảng tài chính, khi công nghiệp xuất khẩu của Việt Nam bị sụt giảm đáng kể. Và với một đất nước tầm vóc nhỏ như Việt Nam thì lượng tàu ngầm đó là không hề rẻ - giá chào hàng là 3,2 tỷ USD, bằng toàn bộ ngân sách quốc phòng cho 1 năm. 
Mùa Hè năm 2010, khu trục hạm USS John S.McCain của hải quân Mỹ đã thả neo ở cảng Đà Nẵng của Việt Nam. Chiếc tàu được đặt tên theo cả bố và ông nội của Thượng nghị sĩ John McCain, cả hai đều là đô đốc 4 sao: ông nội McCain là thuyền trưởng một hàng không mẫu hạm trong Chiến tranh Thái Bình Dương, còn bố McCain là chỉ huy của hải quân Mỹ ở Thái Bình Dương. Việt Nam không chỉ đang đầu tư cho hải quân mà còn đang ra sức kết bạn với những cường quốc hải quân quan trọng khác, nhất là Mỹ. Chuyến thăm của USS McCain đánh dấu một trong những sự đảo chiều ấn tượng nhất của trật tự chính trị châu Á trong vài năm gần đây. Nhiều vùng đất ở Việt Nam vẫn chưa sử dụng được vì chưa thể vô hiệu hóa những quả bom mà máy bay Mỹ ném xuống. Thế nhưng chỉ 3 thập kỷ sau khi Mỹ tháo dỡ đại sứ quán của họ tại Sài Gòn, Việt Nam đã quay sang tìm sự ủng hộ của Mỹ. Quan hệ ấy bắt đầu một cách dè dặt vào cuối những năm 1990 song đã tăng tốc khi xét tới một Trung Quốc vừa trỗi dậy. Năm 2009, Việt Nam tiến một bước quan trọng khi một số quan chức cấp cao của họ đã tham quan hàng không mẫu hạm USS John C.Stennis, để quan sát hoạt động của nó tại biển Nam Trung Hoa. Sự xuất hiện của USS McCain đánh dấu lần đầu tiên hai nước cùng tham gia những hoạt động hải quân, trong đó có một bài huấn luyện và một bài diễn tập tìm kiếm-cứu nạn. (Họ cũng trao đổi vài câu chuyện về việc nấu nướng trên tàu hải quân). Nếu chất liệu như thế có vẻ hơi ít, thì thông điệp của Trung Quốc lại không đồng tình: đó là lời khẳng định mạnh mẽ rằng Việt Nam coi sự hiện diện của hải quân Mỹ trong khu vực là chính danh và quan trọng. Một nhà ngoại giao cấp cao Việt Nam đã nói với tôi: "Trung Quốc phàn nàn rằng Mỹ đang làm nghiêm trọng thêm vấn đề, nhưng chúng tôi nghĩ sự gia tăng hiện diện của Mỹ tại khu vực là quan trọng và giúp ổn định tình hình." 
Trung Quốc liên tục chỉ trích rằng bất cứ bài tập nào của thế lực quân sự Mỹ tại khu vực cũng là minh chứng cho "tâm thế Chiến tranh Lạnh" và cho chiến lược "kiềm chế" Trung Quốc, như Mỹ đã từng làm với Liên bang Xô-Viết. Quan hệ thân thiện mới của Washington với Việt Nam là bằng chứng rõ ràng hơn đối với nhiều người Trung Quốc, rằng Washington quyết tâm duy trì ngôi vị bá chủ của họ. Song sự giận dữ của Trung Quốc lại quên mất hai điểm quan trọng nhất trong sự đồng thuận của Việt Nam với Mỹ: lý do tại sao nó lại đang diễn ra, và bản chất sự hợp tác quân sự của họ là gì. Sự thật không hề dễ chịu cho Trung Quốc là quan hệ hợp tác với Mỹ không phải do Mỹ gây áp lực lên Việt Nam, mà do được đề xuất. Bắc Kinh cũng bỏ qua sự khôn khéo của Việt Nam khi làm việc với Trung Quốc. Thay vì tránh né hàng xóm của mình, Hà Nội cố gắng thử lòng và lôi kéo Bắc Kinh, bằng một màn khiêu vũ nhẹ nhàng mà trở ngại được pha trộn cẩn thận vào lời hội thoại. Tất nhiên lịch sử ngột ngạt của Việt Nam với Trung Quốc là một trường hợp hết sức đặc biệt, nhưng cách thức ấy của Việt Nam cũng phù hợp với nhiều quốc gia khác trong khu vực. Châu Á giờ đây là một lục địa của những nhà nước-quốc gia đầy tự tin - đang gìn giữ sự tự chủ mà họ giành được trong thời kỳ hậu-thuộc địa, và muốn tận dụng hầu hết các cơ hội mà toàn cầu hóa mang tới, trong đó có sự trỗi dậy của Trung Quốc. Nhưng họ muốn trải nghiệm thời đại mới này theo ý chí của chính mình chứ không phải theo ý chí "người anh cả" của ai đó. Với Hà Nội, việc gác xung đột thời chiến với Mỹ sang một bên là cái giá phải trả để có thể xây dựng con đường riêng của mình. Đây không phải sự kiềm chế: Việt Nam coi sự hiện diện của Mỹ là một cách để đưa quan hệ với Trung Quốc đi đúng hướng. 
Hà Nội cân nhắc kỹ lưỡng sao cho không đẩy Bắc Kinh ra quá xa. Bất cứ khi nào Việt Nam diễn tập quân sự với Mỹ thì trước hoặc sau đó họ cũng thường làm điều tương tự với Trung Quốc. Việt Nam và Trung Quốc có một đường dây nóng về quốc phòng mà họ có thể sử dụng trong giai đoạn căng thẳng. Hai Đảng Cộng Sản cũng thành lập một ủy ban điều phối chung, để những quan chức của cả hai nước có thể gặp gỡ nhau định kỳ và tìm cách tháo gỡ các vấn đề. Sự gắn bó đảng-đảng cho phép hai nước hội đàm thân thiện, đấy là điều mà chỉ vài quốc gia khác có thể có được với Trung Quốc. Các đại biểu là những chuyên gia cứng rắn về chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa xã hội, đi qua đi lại giữa hai thủ đô, cùng vui mừng vì cơ hội hiếm hoi được trao đổi ý kiến ở một nước khác. Ngay cả khi quan điểm chống Trung Quốc dâng cao trong nước, Việt Nam vẫn thể hiện sự tự tin nhất định vào năng lực giải quyết ổn thỏa trước một Trung Quốc đang trỗi dậy, kiểu tự tin đến từ kinh nghiệm. Năm 2012, khi Trung Quốc và Phillipines cùng mắc vào bế tắc căng thẳng vì bãi cạn Scarborough, một khu vực tranh chấp khác ở biển Nam Trung Hoa, thì một quan chức Việt Nam nói với tôi bằng giọng điệu hơi bất cần: "Chúng tôi đã đối phó ổn thỏa trước Trung Quốc suốt 2000 năm. Chúng tôi biết chính xác phải làm việc với họ thế nào". Những lời ấy một phần nhắm vào Phillipines, quốc gia mà xét theo nhiều khía cạnh có nguy cơ đi tới một cuộc chiến với Bắc Kinh mà họ không thể chiến thắng, song cũng một phần nhắm vào Mỹ. Đây là oái oăm lớn của Việt Nam hiện đại. Hà Nội là chính phủ có những kênh liên lạc tinh vi nhất để nói chuyện với Bắc Kinh. Nhưng nền chính trị dễ cháy của họ và sự bất mãn có tính lịch sử đã hằn sâu khiến Việt Nam trở thành quốc gia dễ liên tưởng nhất tới một cuộc chiến tranh với Trung Quốc. 
Sự phức tạp này đặt ra những hạn chế đáng kể đối với Mỹ khi tiến vào các vùng nước như vậy. Washington nên tiến bước cẩn thận, nên nhận thực đầy đủ rằng sự đồng thuận của họ với Việt Nam có lẽ bị Trung Quốc nhìn thấy. Một trong những cách chắc chắn nhất - để Mỹ biến một cuộc đua tranh đầy triển vọng với Trung Quốc thành sự thù địch đầy giận dữ - là tăng cường nhanh chóng sự gắn bó quân sự với Việt Nam. Nếu Mỹ đã bắt đầu bố trí những hạng mục quân sự căn bản ở đó chẳng hạn, thì Trung Quốc sẽ bắt đầu nghĩ rằng đấy là sự mở màn tấn công lãnh thổ của họ. Một cựu quan chức cấp cao của Mỹ nói: "Việt Nam với Trung Quốc như Cu Ba với chúng ta. Khi Xô-Viết lật tung Cu Ba, chúng ta đã nhất quyết rằng nó ảnh hưởng nghiêm trọng tới an ninh quốc gia. Suýt chút nữa điều đó đã dẫn tới ngày tận thế". 
Nếu thúc đẩy quan hệ quá mạnh cũng làm Hà Nội e ngại. "Chúng tôi không muốn bị sở hữu bởi bất kỳ ai" - nhà ngoại giao Việt Nam kể trên nói với tôi. Sự gắn bó sâu hơn với Mỹ sẽ đem lại cho Việt Nam một cái nêm để khỏi bị cuốn vào quỹ đạo của Trung Quốc, song Hà Nội không hứng thú với việc trở thành một nước chư hầu mới của Mỹ tại khu vực. Họ muốn Mỹ giúp đỡ vừa đủ chứ không quá nhiều. Hà Nội vẫn rất nhạy cảm với sự hiện diện quân sự Mỹ tại Việt Nam: các lính Mỹ tham gia tìm kiếm những người bị mất tích trong Chiến tranh Việt Nam phải mặc những bộ quần áo dân sự khi họ ở ngoài khu vực ngoại giao của Mỹ. Chỉ có duy nhất một lần họ ở trong khu vực ngoại giao và họ được mặc đồng phục. Hà Nội cũng rất thận trọng với việc sử dụng căn cứ hải quân Cam Ranh, một cảng nước sâu tự nhiên gần vị trí cổ họng chiến lược của biển Nam Trung Hoa. Việt Nam cho phép các tổ chức nước ngoài và các tàu du lịch tới thăm cảnh, trừ các tàu chiến. Leon Panetta, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đã tới Cam Ranh năm 2012 trong một chuyến thăm cấp cao, có lẽ là một bước tiến quan trọng của sự gắn bó quân sự giữa hai quốc gia. Nhưng tàu mà ông ấy ghé thăm là USNS Richard E.Byrd, một tàu vận tải. Vì với Việt Nam, những chi tiết nhỏ như vậy lại là vấn đề lớn. 
Quan hệ Việt Nam-Trung Quốc dường như là có một không hai về cường độ và tính phức tạp của lịch sử, song nó đặt ra những khuôn mẫu lớn hơn vốn đang bắt đầu định hình trật tự chính trị châu Á. Đằng sau chính sách ngoại giao sôi sục của Việt Nam là khát vọng mãnh liệt tránh bị cuốn vào vùng ảnh hưởng của Trung Quốc. Thế nhưng người Việt Nam coi Mỹ thuần túy là một sức mạnh đối trọng với Trung Quốc chứ không phải một đồng minh, hay một quốc gia thống trị khu vực, hay một đối tác kiềm chế Trung Quốc. Đối với cả Việt Nam và Australia, điểm mấu chốt không phải là trốn tránh Trung Quốc và nền kinh tế đang bùng nổ của họ, mà là tìm ra cách để làm việc với Trung Quốc theo ý chí của chính mình. Hợp tác quân sự với Mỹ không phải một bài tập kiềm chế mới, mà là một cách để cảm thấy thoải mái khi tiến sát Trung Quốc hơn.
Trích đoạn, từ cuốn "Cuộc tranh đua của thế kỷ: Kỷ nguyên cạnh tranh mới với Trung Quốc, và cách để Mỹ chiến thắng" ("The Contest of the Century: The New Era of Competition with China--and How America Can Win") của Geoff A.Dyer.

Đường chín đoạn

Nếu như sự kiện chìm tàu Cheonan gây ra nhiều quan ngại sâu sắc cho khu vực Đông-Bắc Á đối với Trung Quốc, thì tín hiệu đánh động khu vực Đông-Nam Á lại đến từ nơi bình thường hơn: Uỷ ban của Liên Hợp Quốc về Ranh giới Thềm lục địa.
Năm 2009, cơ quan còn khá xa lạ này của Liên Hợp Quốc đã đặt ra hạn chót mà các nước trong khu vực phải nộp Hồ sơ quốc gia về ranh giới ngoài Thềm lục địa tại biển Nam Trung Hoa cùng rất nhiều bãi đá, đảo nhỏ và bãi cạn của nó. Biển Nam Trung Hoa có một danh sách đồ sộ và phức tạp các nước tuyên bố chủ quyền ở đó. Trung Quốc, Đài Loan và Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với hầu khắp vùng biển và đảo; Philippines, Brunei và Malaysia đều chỉ tuyên bố chủ quyền đối với một phần nhỏ. Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển đem lại một bộ khung cho hoạt động lập pháp quốc tế để phân xử các tranh chấp như vậy, một thủ tục xử theo án lệ với ngôn ngữ luật chính xác nhằm hạ nhiệt những phản ứng đầy cảm tính. Tuy nhiên trong trường hợp biển Nam Trung Hoa thì kết quả hoàn toàn trái lại. Sau khi Việt Nam và Malaysia ra tuyên bố chung, Trung Quốc đã rất giận dữ. Bắc Kinh cũng có thông điệp riêng, khẳng định: "Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi trên các đảo ở biển Nam Trung Hoa và các vùng nước liền kề." Bên cạnh thông điệp ngoại giao bằng ngôn từ, Bắc Kinh còn gắn kèm một bản đồ khu vực này, ở đó tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc được đánh dấu bởi một đường gồm 9 đoạn.
Bản đồ "đường 9 đoạn" không phải mới: nó được vẽ lần đầu tiên vào những năm 1920 bởi các nhà bản đồ học Trung Quốc, và được sử dụng như là bản đồ bán chính thức vào năm 1947 dưới thời Tưởng Giới Thạch - nhà lãnh đạo Quốc Dân đảng, trước khi những người Cộng Sản giành được chính quyền. Nhưng đây là lần đầu tiên nó được sử dụng trong một tuyên bố chính thức của Trung Quốc tại một diễn đàn quốc tế. Và đối với nhiều quốc gia Đông-Nam Á, nó là dấu hiệu cho sự ngạo mạn mới của Trung Quốc. Trông giống chữ U lớn, "đường 9 đoạn" bắt đầu từ bờ biển Tây-Nam Trung Quốc, uốn lượn xuống sát theo đường bờ biển Việt Nam, uốn cong qua vùng ven biển Malaysia và Brunei, cuối cùng trở về đại lục Trung Quốc sau khi liếm sát vùng ven biển Phillipines. Về phạm vi, nó chiếm gần như toàn bộ vùng biển Nam Trung Hoa, ngoại trừ một dải hẹp bên cạnh đường bờ biển của các nước khác trong khu vực. Trung Quốc nói bản đồ này là sự phản ánh "các quyền lịch sử" của họ do đã kiêm soát các đảo khác nhau trong vài thế kỷ. Người Trung Quốc đôi khi bảo rằng bản đồ hình chữ U trông giống "lưỡi bò"; một người (tôi)  mới gặp đã mô tả nó, ít hoa mỹ hơn một chút, như "dái thòng".
Sách Trắng mới nhất về quốc phòng của Trung Quốc tuyên bố "chúng tôi sẽ không bao giờ tìm kiếm ngôi vị bá chú" - một câu đã nhàm tai và là một trong những câu cửa miệng trong chính sách của Trung Quốc. Song ở nhiều thủ đô khác của châu Á, nơi mà những tuyên bố về "các quyền lịch sử" tất yếu sẽ nhắc họ nhớ lại vị trí lệ thuộc mà họ đã phải chịu đựng trong suốt những thời đại trước đây của thế lực Trung Quốc, thì cái phạm vi tuyệt đối, gây sốc của bản đồ Trung Quốc khiến họ cảm thấy rõ rệt một nỗ lực giành lấy ngôi vị bá chủ. Một nhà ngoại giao Thái Lan tâm sự khi Trung Quốc đưa ra bản đồ gồm "đường 9 đoạn": "Chúng ta có lẽ đã không quá kinh ngạc đến vậy. Nhưng hãy nhìn mà xem, họ thật sự đang cố gắng tuyên bố chủ quyền đối với hầu hết mọi thứ - điều đó thật đáng giật mình."
Một trong những hệ quả của 500 năm thống trị của hải quân phương Tây ở châu Á là những cái tên được dùng phổ biến cho nhiều khu vực đảo ở biển Nam Trung Hoa - bãi đá Mischief, bãi Macclesfield, đảo Woody, và bãi cạn Scarborough. Khoảng 60 bãi đá ở biển Nam Trung Hoa được chia chủ yếu thành hai nhóm: Quần đảo Hoàng Sa ở phía Bắc và Trường Sa xa hơn về phía Nam. Suốt vài thập kỷ, các tranh chấp xem ai sở hữu những khu vực đảo này chỉ là sự kiện bên lề ít được biết đến, ngay cả khi Trung Quốc và Việt Nam Cộng Hòa chiến tranh chớp nhoáng giành nhau một số đảo vào năm 1974, kết quả là Trung Quốc chiếm quyền kiểm soát Hoàng Sa, và lại chiến tranh vào năm 1988. Nhưng trong 5 năm gần đây, các tranh chấp ấy nhanh chóng trở thành một cơn bão thật sự của nền địa-chính trị hiện đại. Biển Nam Trung Hoa là nơi mà những lo ngại của Mỹ và Đông-Nam Á, về sự tăng cường quân sự của Trung Quốc, đã bắt đầu có sự tương đồng. Về phía Mỹ, các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đã rung chuông báo động mối de dọa trong dài hạn đối với trật tự trên biển của Mỹ. Còn về phía các nước châu Á tuyên bố chủ quyền thì tranh chấp còn liên quan tới cả dầu, hải sản và chủ nghĩa dân tộc mãnh liệt.
Bề ngoài có lẽ chỉ là vài miếng đất không đáng kể, nhưng lợi ích kinh tế mà những đảo đang bị tranh chấp ở biển Nam Trung Hoa đem lại có thể rất lớn. Ở Trung Quốc, biển Nam Trung Hoa đôi khi được gọi là "Đại Khánh trên biển" - Đại Khánh vốn là một mỏ dầu được tìm thấy vào những năm 1950 ở Đông-Bắc Trung Quốc, một cứu cánh cho nền kinh tế theo đường lối Mao Trạch Đông trong thời kỳ đóng cửa kinh tế, và là thành phần chủ đạo trong công tác tuyên truyền của Cộng Sản đảng về tự lực cánh sinh lao động chăm chỉ. Các dự đoán của Trung Quốc ước tính có khoảng 213 tỷ thùng dầu ở biển Nam Trung Hoa, không kém nhiều so với lượng dữ trự của Ả-Rập Xê-Út. Ứơc tính khác của Trung Quốc cho rằng ở đó có đủ khí tự nhiên dùng trong 400 năm, với mức tiêu thụ như hiện nay. (Một số dự đoán cá nhân thì đưa ra con số kém lạc quan hơn nhiều - một phần vì nhiều lượng dầu là gần như không thể tái tạo - cho rằng lượng dữ trữ khoảng 2,5 tỷ thùng). Nếu mỏ dầu tiềm năng là không đủ thì biển vẫn đầy hải sản, làm tăng sức hút của nó đối với những tàu cá Trung Quốc và Việt Nam, vốn đã thấy nguồn cung tại các vùng đánh bắt truyền thống gần bờ của họ ngày càng suy giảm do đánh bắt quá tay, nên họ buộc phải tiến vào những khu vực xa bờ hơn, những vùng nước tranh chấp. Trung Quốc là nhà tiêu thụ hải sản lớn nhất thế giới (và là nhà xuất khẩu), hải sản cũng cung cấp một nửa lượng protein trong bữa ăn hàng ngày của người Việt Nam. Đối với cả hai quốc gia, đánh bắt hải sản là ngành công nghiệp có tầm quan trọng bị đánh giá thấp.
Khi mà những xích mích đã gia tăng trong vài năm gần đây, Trung Quốc quả quyết rằng các quốc gia khác chính là nguyên nhân, và họ đưa ra một chút bằng chứng khẳng định điều ấy. Bắc Kinh phẫn nộ trước việc Malaysia và Việt Nam gửi báo cáo chung tới Liên Hợp Quốc, mà Trung Quốc coi đấy là bằng chứng rằng các nước khác đang kết bè chống lại nó. Các quan chức Trung Quốc lớn tiếng phản đối quan điểm cho rằng Trung Quốc là nước duy nhất không có quyền khai thác tài nguyên dầu ở biển Nam Trung Hoa. "Có tới 700 giếng dầu tại những khu vực mà chúng tôi tin là của chúng tôi, vậy mà người ta lại lên án sự cương quyết của chúng tôi" - một quan chức Trung Quốc nói với tôi như vậy. Họ cũng lưu ý tới sự tăng cường hạ tầng tại các vùng đảo bị kiểm soát bởi các quốc gia khác, đặc biệt là Việt Nam tại Trường Sa - nơi Việt Nam kiểm soát 29 vùng đảo. Bắc Kinh cũng khăng khăng rằng nỗ lực của Washington can dự vào tranh chấp đã tiếp thêm động lực cho Việt Nam và Phillipines để đối đầu với Trung Quốc. Nhiều người Trung Quốc chắc chắn rằng Mỹ đang chống lại họ tại biển Nam Trung Hoa. "Trung Quốc không phải nước khơi mào những vấn đề này và còn lâu mới là thủ phạm gây ra tổn hại" - ông Thôi Thiên Khải, cựu Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, trở thành Đại sứ Trung Quốc tại Mỹ từ năm 2013, nói - "thay vào đó, Trung Quốc là một nạn nhân bị buộc phải chịu những tổn hại."
Những nước tuyên bố chủ quyền khác lại kể câu chuyện rất khác. Họ nói tới sự hiện diện hải quân của Trung Quốc tuy gia tăng từ từ nhưng có tính quyết định tại khu vực trong suốt một thập kỷ gần đây, tới sự tăng cường có chủ đích các căn cứ quân sự trên một số đảo mà Trung Quốc kiểm soát, là một phần của quá trình ngấm ngầm khẳng định chủ quyền. Các hình ảnh vệ tinh về đảo Woody (tiếng Việt: Phú Lâm, tiếng Trung: Yongxing) thuộc Hoàng Sa đã chứng minh điều ấy. Đảo nhỏ này cách 200 dặm về phía Nam căn cứ tàu ngầm tại Hải Nam. Nó không có dân bản địa cũng như nguồn cấp nước tự nhiên, song chỉ vài năm gần đây nó trở thành một thành trì quân sự được gia cố vững chắc. Một cổng chính vừa được xây dựng tại một khu vực đã được nạo vét. Đồng thời, phần đất liền được mở rộng để làm một đường băng cho các máy bay quân sự: các hình ảnh vệ tinh cho thấy một dải đất hẹp dài gần gấp hai lần so với đảo. Có một dải đất hẹp khác cho thấy con đường dài 1 dặm nối giữa đảo với một bãi nhỏ khác - mà bây giờ được dùng làm trung tâm kiểm soát các hoạt động hải quân trong khu vực. Năm 2012, Bắc Kinh tuyên bố rằng thị trấn chính của đảo, tức Tam Sa, trở thành đơn vị hành chính chính thức. Có một tòa nhà chính quyền địa phương với tường được sơn trắng, với những chiếc cột cao theo phong cách tân-cổ điển và một mái vòm lớn, trông giống phiên bản thu nhỏ của Capitol ở Mỹ. Vào ngày nó được tuyên bố thành đơn vị hành chính chính thức, một quan chức nông nghiệp địa phương, tên là Xiao Jie, đến từ Hải Nam đã được gửi tới thị trấn bằng chuyến tàu 20 giờ để đảm nhiệm cương vị lãnh đạo. "Không có đất trồng trọt ở đây" - ông ấy nói trên cương vị mới - "mục tiêu chủ yếu là bảo vệ chủ quyền trên biển của quốc gia".
Các chính phủ ở Đông-Nam Á chỉ trích Bắc Kinh vì thực hiện chiến lược "miệng nói tay làm". Nếu gặp dịp, Việt Nam và Phillipines có thể kể vanh vách những biểu hiện của Trung Quốc mà họ coi là hành động bắt nạt. Việt Nam chỉ ra rằng 2 trong số 9 đoạn ở bản đồ nổi tiếng của Trung Quốc ấy là thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam theo luật quốc tế, tức là vùng 200 dặm vượt quá đường cơ sở của một quốc gia theo luật quốc tế. Năm 2007, Bắc Kinh gây áp lực buộc Exxon Mobile và vài công ty dầu khí nước ngoài khác phải dừng các hoạt động khoan thăm dò tại vùng ven biển Việt Nam - một sự kiện đôi khi được coi là khởi đầu cho giai đoạn xích mích hiện nay. Năm 2011, các tàu của chính phủ Trung Quốc đã cắt cáp của 2 tàu thăm dò dầu khí cho Petro Việt Nam. Hai tháng sau, một tàu Phillipines đang nghiên cứu địa chấn trong vùng biển tranh chấp đã bị 2 tàu của chính phủ Trung Quốc buộc phải rời đi. Hàng năm, những nhà cầm quyền Trung Quốc đều tạm thời cấm đánh bắt hải sản tại một số vùng ở biển Nam Trung Hoa, mà họ nói là để bảo vệ nguồn cung, song quyết định ấy không được sự đồng thuận của các chính phủ khác. Cứ mỗi năm, Trung Quốc lại bắt giữ hàng tá ngư dân vi phạm lệnh cấm đánh bắt đó.
Thật khó mà không nghĩ rằng đấy là một kế hoạch dài hạn, có tính toán nhằm dần dần khẳng định quyền kiểm soát khu vực. Vậy nhưng, cũng như nhiều biến động mà ở đấy sức mạnh to lớn bên trong Trung Quốc bắt đầu bùng phát, còn một khía cạnh khác trong sự cương quyết mới đây của Trung Quốc tại biển Nam Trung Hoa, đó là áp lực tích tụ từ bên dưới buộc phải họ phải mạnh tay hơn. Hành xử của Trung Quốc tại biển Nam Trung Hoa là một trong những ví dụ rõ ràng nhất cho thấy các nhóm lợi ích đua tranh nhau đã uốn nắn chính sách ngoại giao như thế nào - sự phân chia quyền lực là điều mà giới lãnh đạo Trung Quốc đã chứng kiến. Một loạt cơ quan khác nhau của chính phủ phải chịu trách nhiệm chồng chéo nhau đối với những yếu tố góp phần khẳng định sự hiện diện của chính phủ họ tại biển Nam Trung Hoa, và đôi khi họ tranh cãi nhau để chứng tỏ sự hiện diện của mình. Người Trung Quốc nhanh chóng nhận ra điều này, và gọi các nhóm khác nhau ấy là "9 con rồng" - một sự liên hệ với truyền thuyết cổ xưa về một vua rồng có 9 đứa con, có thể bắt gặp ở vô vàn bức tranh tường "khuấy động vùng biển".
Một trong những áp lực từ bên dưới đó đến từ các chính quyền địa phương. Chính quyền đảo Hải Nam, nơi có căn cứ hải quân mới, chịu trách nhiệm quản lý Trường Sa và Hoàng Sa, suốt 2 thập kỷ vừa qua đã thử tổ chức những chuyến du lịch hạng sang tới các đảo như một phần kế hoạch phát triển của riêng họ. Trong vài năm gần đây, sự ngăn cản của những nhà cầm quyền tại trung ương đối với các hoạt động này đã giảm dần. Các hãng du lịch ở Hải Nam giới thiệu với khách hàng những gói dịch vụ bơi lặn xa hoa tại Hoàng Sa, và hiện nay có một cuộc đua thuyền giữa Hải Nam và Hoàng Sa. Những công ty dầu khí lớn, thuộc các thành phần quyền lực nhất và liên kết chặt chẽ nhất của nền công nghiệp do nhà nước sở hữu, cũng vừa ra sức vận động chính phủ tăng cường tuyên bố chủ quyền tại khu vực. Năm 2012, CNOOC - một trong 3 công ty dầu khí lớn - đã mời các công ty dầu khí nước ngoài cùng khai thác 9 mỏ dầu tại những khu vực còn tranh chấp, mà một số mỏ dầu trong đó thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Ngay cả trong những cơ quan trực thuộc chính phủ Trung Quốc đang quản lý các hoạt động tại khu vực, thì cũng có các nhóm lợi ích đua tranh nhau. Cục quản lý Nghề cá chịu trách nhiệm điều phối hoạt động đánh bắt tại những vùng nước của Trung Quốc, nhưng cơ quan Gíam sát Hàng hải Trung Quốc cũng tiến hành các hoạt động thực thi luật pháp trong khu vực. Như bất cứ cơ quan tốt nào khác, họ đều cố thể hiện tầm quan trọng của mình để có thêm ngân sách, vốn đã phình ra nhanh chóng trong vài năm gần đây. Họ thậm chí còn có một câu cửa miệng để biện minh cho những chức năng đôi khi lẫn lộn và chồng chéo của mình: "Hãy chộp lấy những gì bạn có thể chộp được trên biển, rồi sau đó hãy phân chia trách nhiệm giữa các cơ quan". Bộ Nông nghiệp, nơi chịu trách nhiệm về nghề cá, quản lý một hệ thống khen thưởng cho các cá nhân, những người "mạnh mẽ và dũng cảm trong việc bảo vệ chủ quyền của Trung Quốc": còn các quan chức thì được thưởng vì đã đuổi nhiều tàu thuyền nước ngoài ra khỏi những vùng nước mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền. Với hàng tá tàu và máy bay trong tay, các cơ quan này cũng có vai trò trong việc mở rộng phạm vi tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc. Trong khi việc sử dụng hải quân có thể bị coi là một động thái gây phẫn nộ, thì các tàu thực thi luật pháp lại có thể hiện thực hóa tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc một cách ít trực diện hơn.
Còn 2 yếu tố khác đằng sau nỗi lo ngại sâu sắc của khu vực Đông-Nam Á. Không chỉ có sự gia tăng tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc làm dấy lên lo ngại trong khu vực, mà còn có sự mập mờ của nó. Chẳng ai biết rõ mình đang đối mặt với vấn đề gì. Ngay cả khi bản đồ "đường 9 đoạn" đã tồn tại suốt vài thập kỷ, thì Trung Quốc cũng chưa bao giờ thực sự xác định lãnh thổ theo bản đồ ấy. Có những lúc, các quan chức Bộ Ngoại giao cố làm dịu các lo ngại, bằng cách nói rằng những tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc chỉ áp dụng với các vùng đảo và vùng đất bên trong đường 9 đoạn thôi. Một tuyên bố như thế sẽ vẫn kéo theo một loạt tranh chấp khó khăn, dù phạm vi ít hơn nhiều so với việc tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ khu vực trên bản đồ. Thế nhưng có những lúc khác, các quan chức và các nhà phân tích Trung Quốc lại nói rằng "quyền sở hữu" lịch sử đối với biển Nam Trung Hoa đem lại cho họ những độc quyền đối với mọi thứ bên trong đường 9 đoạn. Những người khác lại đề xuất rằng khu vực bên trong đường 9 đoạn là một phần trong "các vùng nước chủ quyền" của Trung Quốc. Bành Quang Khiêm, một tướng lĩnh diều hâu cao cấp của Giải phóng quân Nhân dân Trung Hoa, thì bảo rằng các vùng nước bên trong "đường 9 đoạn" là "vùng đất màu xanh... của Trung Quốc" và là một khu vực "thuộc sở hữu" của Trung Quốc. Nỗ lực của CNOOC thực hiện các hợp đồng dầu khí bên trong các vùng nước tranh chấp và các lệnh cấm đánh bắt mà Trung Quốc áp đặt đã cho thấy quan điểm chính thức là rất khác quan điểm do Bộ Ngoại giao đưa ra. Sự mập mờ ấy có thể bộc lộ vài điều. Có thể là sự linh hoạt trong quan điểm của Trung Quốc, được điều chỉnh sau các cuộc đàm phán. Nhưng cũng có thể là Trung Quốc đang thử theo cả hai con đường: những nhà ngoại giao kiên định với các tuyên bố chủ quyền phạm vi hẹp, trong khi hành động thực tế lại nhắm tới một phạm vi bao quát hơn nhiều.
Còn một vấn đề về tầm vóc nữa. Khi làm việc với Trung Quốc, những quốc gia khác ít cảm thấy sự bình đẳng về chủ quyền, mà phần nhiều thì cứ như là họ buộc phải ngồi cạnh một con voi lớn có thể đập bẹp họ. Sự khác biệt rất lớn về tầm vóc ấy khiến cho những động thái của Trung Quốc dường như nguy hiểm đối với các hàng xóm hơn những gì mà Bắc Kinh nhận thức. Những nước tuyên bố chủ quyền của Đông-Nam Á muốn thảo luận đa phương về các tuyên bố chủ quyền khác nhau, với niềm tin rằng chỉ có thảo luận đa phương mới cho phép họ nói chuyện một cách bình đẳng. Vì sợ hãi các quốc gia khác sẽ liên minh nhờ đó, Trung Quốc kiên quyết rằng từng quốc gia nên làm việc theo cơ chế song phương. Đối với những nước nhỏ hơn, sự kiên quyết đàm phán song phương của Trung Quốc giống như một kiểu bắt nạt. Một chính khách cấp cao tới từ một nước Đông-Nam Á nói: "Quan điểm của Trung Quốc là 'vấn đề không phải tính đúng đắn trong tuyên bố chủ quyền của chúng tôi; nếu chúng tôi nói đó là của chúng tôi thì có nghĩa rằng đó là của chúng tôi'".
Để có quan hệ tốt với Trung Quốc, thì những phản ứng dữ dội trong khu vực trước thái độ của Trung Quốc tại biển Nam Trung Hoa dường như vừa được một cú hích nhẹ từ sự xoay trục linh hoạt của Mỹ. Nếu như có một khu vực mà Washington vẫn chiếm ưu thế mang tính quyết định so với Bắc Kinh, thì nó ở trong nghệ thuật hắc ám của truyền thông mật báo. Tháng Ba năm 2009, Jeff Bader - giám đốc phụ trách khu vực châu Á của Hội đồng An ninh Quốc gia, và James Steinberg - Thứ trưởng Ngoại giao, đã tới Bắc Kinh để tham gia một loạt cuộc họp với những người đồng cấp phía Trung Quốc. Biển Nam Trung Hoa là một trong những đề tài được chú trọng trong các cuộc họp. Vài tuần sau, báo New York Times đăng một câu chuyện nói rằng Trung Quốc giờ đây coi biển Nam Trung Hoa là một "lợi ích cốt lõi".
Trong ngoại giao, những câu chữ ngắn ngủi có thể mang theo sức mạnh to lớn. Trong ngôn ngữ mã hóa của nền ngoại giao Trung Quốc, hai từ này vô cùng quan trọng. Các "lợi ích cốt lõi" khác là Đài Loan và Tây Tạng, những nơi mà đảng Cộng Sản Trung Quốc sẽ dời cả những ngọn núi để giành lấy sự thống trị. Việc mô tả biển Nam Trung Hoa bằng các câu chữ như vậy thật sự đã cho thấy một sự tăng cường căn bản, một dấu hiệu rằng Trung Quốc không bao giờ nhân nhượng hay đàm phán. Các quan chức Trung Quốc thực tế đã thể hiện tâm thế không nhân nhượng trong suốt những cuộc họp, đưa ra vài bài giảng về các quyền của họ tại biển Nam Trung Hoa. Thế mà Jeff Bader và James Steinberg vẫn quả quyết rằng công thức "các lợi ích cốt lõi" dễ gây bùng nổ ấy không bao giờ được sử dụng trong những cuộc họp của họ - dù chính điều này còn gây tranh cãi - cả từ phía các thuộc cấp của ông Dai lẫn từ phía một số thành viên trong đoàn đại biểu Mỹ. ("Hillary dường như vừa dọn dẹp lại bộ nhớ của mình" - một quan chức Mỹ chua cay như vậy). Tuy nhiên, dù nguồn gốc của cụm từ "lợi ích cốt lõi" có là gì thì Trung Quốc cũng đã bị rơi vào thế khó. Chính phủ Trung Quốc không thể xác nhận lời tuyên bố mà lại không gây phẫn nộ cho khu vực Đông-Nam Á. Nhưng chẳng ai trong số họ có thể chính thức phủ nhận câu chuyện, vì sợ vấp phải sự chỉ trích của những người dân tộc chủ nghĩa rằng họ đã yếu đuối. Thay vào đó, Bắc Kinh im lặng gắm nhấm nỗi đau.
Nếu câu chuyện "lợi ích cốt lõi" bị cường điệu hóa, thì đó là loại cường điệu mà cả khu vực đều tin ngay lập tức, vì nó có vẻ ăn khớp với hành xử thực tế của Trung Quốc. Thuật hùng biện của Washington, kể từ năm 2010, thỉnh thoảng dựa vào những khẩu hiệu vụng về cùng với dòng chữ "Mỹ đang quay lại" ở châu Á. Song câu chuyện thực sự lại là cánh cửa mở chờ đón Washington bước vào một khu vực mà ở đó sự lo ngại Trung Quốc đang lên nhanh. Ở Phillipines chẳng hạn, đã có sự phấn khích rộng khắp khi Hải quân Mỹ bị buộc phải rời khỏi căn cứ của nó tại vịnh Subic năm 1992, còn những nhà lãnh đạo kiểu Gloria Arroyo đã chào đón Trung Quốc như một "người anh cả". Nhưng các tàu chiến của Mỹ giờ đây đang quay lại với tần suất lớn chưa từng thấy, còn tổng thống mới của Phillipines, ông Benito Aquino đã tuyên bố năm 2012: "Chúng ta cần đoàn kết chống lại những hành động tấn công từ phía Trung Quốc".
Về cơ bản, Trung Quốc đã bắt đầu phải hứng chịu tai hại từ sự bất nhất căn bản trong chiến lược của họ. Vào giai đoạn tốt nhất trong 2 thập kỷ, Bắc Kinh đã theo đuổi hai mục tiêu riêng biệt. Họ có một chiến lược quân sự cố gắng đẩy lui dần Mỹ về phía Thái Bình Dương và giành quyền kiểm soát lớn hơn tại các vùng biển gần Đại lục. Đồng thời, họ có hoạt động ngoại giao dồn dập nhằm ngăn cản các hàng xóm tạo thành một liên minh cô lập nó. Thế nhưng họ điều chỉnh hai mục tiêu không ăn khớp nhịp nhàng. Họ càng chống Mỹ và càng gia tăng tuyên bố về lãnh thổ thì họ càng khiến khu vực thêm chào đón Washington. Trung Quốc đã gặp hết trở ngại này đến trở ngại khác về chiến lược. Rốt cuộc lại làm vững mạnh thêm những đồng minh trụ cột của Mỹ ở Đông-Bắc Á. Đồng thời, hành xử của Trung Quốc ở biển Nam Trung Hoa tạo điều kiện cho Mỹ gắn bó hơn với các quốc gia Đông-Nam Á. Shi Yinhong, học giả Trung Quốc và là người hâm mộ Otto von Bismarck, nói một cách buồn bã: "Chúng tôi thu được toàn những kết quả trái với những gì mong đợi".
Kinh nghiệm của Mỹ trong thế kỷ 19 cho thấy phạm vi mà chiến lược của Trung Quốc nhắm tới là sai lầm. Suốt gần 2 thế kỷ, Mỹ đã tuyên bố sở hữu một khu vực và đã cố gắng ngăn những thế lực lớn khác không thể áp đặt ảnh hưởng mang tính quyết định ở Tây Bán Cầu. Một nhà ngoại giao Trung Quốc từng dè dặt đặt vấn đề: "Tại sao chúng ta không có học thuyết Monroe của riêng mình?". Ông ấy nhanh chóng tự kiểm duyệt, vì Trung Quốc không thừa nhận bất kỳ sự tự tin nào như vậy, nhưng không quá khó hiểu tâm trạng chán chường đằng sau câu hỏi ấy. Với một số người Trung Quốc, Mỹ sử dụng tiêu chuẩn kép khi cách ra sức ngăn cản Trung Quốc có được cùng loại ảnh hưởng mà Mỹ đang lợi dụng ở sân sau của mình. Việc so sánh quan điểm hướng tới các vùng biển gần Đại lục của Trung Quốc với học thuyết Monroe đã từng bị coi là một cái gì đó ngạo mạn. Nhưng khi những tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc thêm phần cứng rắn thì phép so sánh lại bắt đầu tỏ ra hợp lý. Những cái gọi là "đường 9 đoạn" và các tuyên bố về "những quyền lịch sử" là gì nếu không phải lời khẳng định cho một ý thức sở hữu và quyền hành thống trị khu vực nào đó? Thế nhưng một lịch sử rất khác đằng sau học thuyết Monroe đã cho thấy rõ sự bất đồng căn bản giữa cái nhìn của Trung Quốc về chính mình với cái nhìn của nhiều quốc gia châu Á về Trung Quốc. Sức mạnh hải quân Mỹ từ những năm 1890 chắc chắn là một yếu tố cho phép Washington mở rộng quyền lực của mình, song không phải yếu tố duy nhất. Một yếu tố khác quan trọng không kém là sự chào đón hào phóng mà Mỹ có được ở phần lớn khu vực Mỹ La-tinh cũng vào thời gian đó. Học thuyết Monroe không được áp dụng ở bán cầu không chào đón nó: tại nhiều vùng của Mỹ La-tinh, nó được hoan nghênh.
Khi Brazil đăng cai Hội nghị hợp tác xuyên-Mỹ lần thứ ba vào năm 1906, thì nhân vật chủ đạo là Elihu Root, Bộ trưởng Ngoại giao dưới thời Teddy Roosevelt, đang công du khắp khu vực Mỹ La-tinh để giải thích những tác động của học thuyết Monroe. Elihu Root đã được chào đón nồng nhiệt, vì nhiều chính phủ Nam Mỹ thấy rằng học thuyết Monroe không phải sự áp đặt của thế lực Mỹ mà là sự bảo đảm cho họ độc lập khỏi sự cai trị của thực dân châu Âu. Sự tin tưởng vào Washington lớn tới mức những người Brazil đổi tên tòa nhà diễn ra hội nghị thành Palacio Monroe - cái tên vẫn được giữ khi tòa nhà trở thành trụ sở vĩnh viễn của Thượng viện. Joaquim Nabuco, một trong những người Brazil nhiều ảnh hưởng nhất thời đại vì vai trò trong công cuộc xóa bỏ chế độ nô lệ, đã vui mừng công bố rằng mình là một "người theo chủ nghĩa Monroe". Ông ấy nói: "Đối với tôi, học thuyết Monroe có nghĩ rằng chúng ta tự tách mình khỏi châu Âu một cách hoàn toàn và kiên quyết như mặt trời với mặt trăng vậy". Tất nhiên, trong vài thập kỷ sau Chiến tranh Thế giới thứ II, khi mà Mỹ tham gia lật đổ những chính phủ do dân bầu ra ở Guatemala những năm 1950, ở Brazil những năm 1960, và ở Chile những năm 1970, thì cái nhìn của khu vực về sự cần thiết có Mỹ đã thay đổi chóng mặt. Chủ nghĩa chống-Mỹ nhanh chóng trở thành một phần của DNA chính trị khu vực Mỹ La-tinh. Kể từ đó, nhiều chính phủ cố đẩy lùi Washington theo đúng cách mà các nước châu Á hiện nay đang làm với Trung Quốc. Song thực tế thì tòa nhà Thượng viện Brazil được đặt tên sau khi Monroe nhấn mạnh cái cách mà khu vực đó hiểu học thuyết của ông ấy vào thời gian ấy.
Sự giận dữ tại châu Á, vốn đã bắt đầu thành hình từ năm 2010, sẽ không dễ cho Trung Quốc có thể đảo ngược, ngay cả khi Trung Quốc thử quay về một dạng "ngoại giao nụ cười" khác. Năm 2010 không phải một ngọn lửa bùng lên giây lát trên chảo, mà nó cho thấy một sự thay đổi trật tự chính trị dài hạn ở châu Á, trong đó nhiều chính phủ nhận thức rằng những lợi ích của họ có điểm chung với những lợi ích của Washington. Trở ngại cho Trung Quốc không phải tạm thời nếu nghiên cứu sâu hơn về hai quốc gia trọng yếu tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương, hai quốc gia khác nhau rất nhiều về chính trị, văn hóa và lịch sử, nhưng là hai quốc gia đang bộc lộ bản năng giống nhau trước sự trỗi dậy của Trung Quốc: Australia và Việt Nam.
 Trích đoạn, từ cuốn "Cuộc tranh đua của thế kỷ: Kỷ nguyên cạnh tranh mới với Trung Quốc, và cách để Mỹ chiến thắng" ("The Contest of the Century: The New Era of Competition with China--and How America Can Win") của Geoff A.Dyer.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét