"Newsweek",
USA
1962,
Trung Quốc đã dạy cho Ấn Độ một “bài học” có giá trị đến ngày hôm nay.
Ngày 20
tháng Mười năm 1962, ngay trước lúc bình minh, Quân đội Giải phóng Nhân dân
Trung Quốc bất ngờ xâm chiếm Ấn Độ. Các đơn vị quân đội mạnh mẽ như trận cuồng
phong liên tục tấn công và vượt qua phần phía đông và phía tây dãy Hy Mã Lạp
Sơn, tiến sâu vào phần đông bắc của đất nước. Vào ngày thứ 32 của cuộc chiến
tranh, Bắc Kinh bỗng nhiên thông báo lệnh ngừng bắn đơn phương, và chiến tranh
kết thúc đột ngột như nó đã bắt đầu.
Mười ngày sau đó, người Trung Quốc bắt đầu
rút quân khỏi phần phía Đông của Ấn Độ nằm giữa Bhutan và Miến Điện, nhưng giữ
lại những vùng lãnh thổ đã chiếm được ở phía tây, khu vực trước đây là một phần
của công quốc Jammu và Kashmir. Ấn Độ phải chịu thất bại hoàn toàn và vô cùng
nhục nhã, còn uy tín quốc tế của Trung Quốc thì tăng lên rõ rệt.
Cuộc
xung đột này đã tiết lộ những yếu tố chính trong học thuyết chiến lược của Bắc
Kinh, do đó nó chính là một bài học. Dưới đây, chúng ta sẽ xem xét 6 nguyên tắc
cơ bản mà Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã tuân thủ trong cuộc xâm
lược Ấn Độ và chắc chắn là sẽ được sử dụng trong tương lai.
Đột
ngột.
Trung Quốc rất coi trọng yếu tố bất ngờ, cho phép tóm gọn đối phương một cách
bất thình lình. Ý tưởng nằm ở chỗ dành chiến thắng thật nhanh chóng trên chiến
trường để bẻ gãy đối thủ cả về mặt chính trị lẫn tâm lý. Thật vậy, người Trung
Quốc bắt đầu và kết thúc chiến tranh năm 1962 khi Ấn Độ ít mong đợi nhất. Họ
cũng đã hành động tương tự khi xâm lược Việt Nam vào năm 1979.
Tập
trung toàn diện.
Các vị tướng lĩnh Trung Quốc cho rằng cần phải tấn công nhanh chóng và mạnh mẽ
hết sức có thể. Đó chính là chiến thuật mà họ đã thể hiện qua cuộc chiến tranh
chớp nhoáng chống Ấn Độ vào năm 1962. Mục tiêu ở đây là buộc kẻ thù phải “giao
chiến với kết cục nhanh”. Tập trung toàn diện vào mục tiêu là điểm đặc thù cho
tất cả các hoạt động quân sự mà Đảng cộng sản Trung Quốc đã thực hiện kể từ năm
1949.
Tấn
công trước.
Bắc Kinh không bao giờ ngần ngại sử dụng vũ lực để giải quyết những vấn đề
chính trị. Ngược lại, Trung Quốc đã nhiều lần chứng tỏ rằng họ luôn sẵn sàng để
“dạy một bài học” cho đối phương, nếu như có kẻ dám thách thức Bắc Kinh trong
tương lai. Thủ tướng Chính phủ Trung Quốc Chu Ân Lai đã giải thích rằng chiến
tranh năm 1962 nhằm mục đích "cho Ấn Độ một bài học nên thân". Đặng
Tiểu Bình, người đầu tiên trong các nhà lãnh đạo cộng sản Trung Quốc đến thăm Hoa
Kỳ, đã sử dụng ngôn từ tương tự trong năm 1979 trong chuyến thăm tới
Washington, khi tuyên bố với Jimmy Carter, đương kim Tổng thống lúc đó rằng
“Việt Nam, cũng như Ấn Độ, cần phải bị trừng trị”.
Chờ
đợi.
Người Trung Quốc tin rằng phải
chờ đợi thời điểm thích hợp. Cuộc chiến tranh 1962 là ví dụ điển hình của chiến
thuật này. Vụ tấn công xảy ra đồng thời với cuộc khủng hoảng Caribe, đã đưa thế
giới đến sát bên bờ vực của ngày tận thế hạt nhân. Tình hình này làm chuyển
hướng sự chú ý của những quốc gia có thể hỗ trợ cho Ấn Độ. Đến khi Hoa Kỳ cho
hay về việc đối đầu với Matxcova đã chấm dứt, Trung Quốc ngay lập tức tuyên bố
ngừng bắn đơn phương.
Một sơ
đồ hành động tương tự đã được sử dụng sau đó. Sau khi Mỹ rút quân khỏi miền Nam
Việt Nam, Trung Quốc đã chiếm quần đảo Hoàng Sa. Năm 1988, khi Việt Nam mất đi
sự ủng hộ của Matxcova, và cuộc chiến tranh Afghanistan làm cho Liên Xô từ bỏ
niềm đam mê vào các cuộc phiêu lưu quân sự nước ngoài, Trung Quốc liền xâm
chiếm rạn đá ngầm Johnson, một phần của quần đảo Trường Sa. Năm 1995, với thực
tế là Philippines không được bảo vệ, người Mỹ đã buộc phải đóng cửa các căn cứ
quân sự ở Vịnh Subic Bay và các khu vực khác của quần đảo này, cho phép người
Trung Quốc dành quyền kiểm soát rạn san hô Mischif.
Biện
minh cho hành động của mình. Bắc Kinh thích ngụy trang những hành động xâm lược của
mình bằng các mục đích quốc phòng. Cuộc tấn công vào Ấn Độ năm 1962 được Bắc
Kinh chính thức gọi là “phản công để phòng thủ”, và thuật ngữ này sau đó cũng
được sử dụng để biện minh cho cuộc xâm lược Việt Nam, cũng như cho việc xâm
lược các quần đảo Hoàng Sa, rạn san hô Johnson và rạn đá ngầm Mischif.
Sẵn
sàng mạo hiểm.
Những hành động liều mạng từ lâu đã là một phần không tách rời của chiến lược
quân sự Trung Quốc. Việc các nhà lãnh đạo Trung Quốc sẵn sàng cho các hoạt động
quân sự là điều hiển nhiên cho tất cả, không chỉ dưới thời đại của Mao Trạch
Đông, thời kỳ đầy dẫy những thay đổi rắc rối trong chính sách, mà cả khi người
rất thực dụng như Đặng Tiểu Bình cũng quyết định xâm lược Việt Nam, bỏ qua khả
năng can thiệp từ phía Liên Xô
Cách đây năm thập kỷ, binh lính
Trung Quốc và Ấn Độ đã giao tranh và đổ máu trên một chiến trường cao nhất của
thế giới. Dấu mốc 50 năm sau cuộc chiến Trung - Ấn đã bị dấu mốc kỷ niệm 50 năm
Cuộc khủng hoảng Tên lửa Cuba làm mờ nhạt trên truyền thông quốc tế.
Tuy nhiên, theo báo mạng AsiaTimes Online, cuộc xung đột biên giới chóng
vánh và cay đắng giữa Trung Quốc với Ấn Độ đã để lại một hệ quả địa chính trị
to lớn không chỉ cho hai cường quốc này mà còn cho toàn thế giới.
Mối quan hệ cốt lõi giữa hai quốc
gia đông dân nhất thế giới bị ám ảnh bởi bóng ma của lịch sử và sự xuất hiện
của nguy cơ xung đột trong tương lai. Môi trường chiến lược vẫn bị mắc kẹt
trong mô hình của sự đối đầu, bất chấp những cải thiện trong quan hệ văn hóa,
chính trị và kinh tế giữa Trung Quốc và Ấn Độ.
Những nguyên nhân địa chính trị khu
vực đã dẫn đến cuộc chiến Trung-Ấn vẫn hầu như chưa được giải quyết. Trung Quốc
và Ấn Độ vẫn còn tranh chấp biên giới chung, vốn được người Anh và người Tây
Tạng ấn định năm 1914. Chính phủ Trung Quốc bác bỏ đường biên giới này với lý
do nó là do đế quốc phương Tây để lại. Trung Quốc đòi chủ quyền đối với
bang Arunachal Pradesh của Ấn Độ, trong khi Ấn Độ lại đòi chủ quyền
đối với khu vực Askai Chin do Trung Quốc kiểm soát. Đặc biệt, Ấn Độ hiện vẫn hỗ
trợ về mặt chính trị và nơi cư trú cho Đạtlai Lạtma – thủ lĩnh tinh thần của
người Tây Tạng. Chính phủ Trung Quốc coi chính sách này là sự can thiệp vào
công việc nội bộ của Trung Quốc.
Ấn Độ lưu giữ ký ức cay đắng về Cuộc
chiến Trung-Ấn. Chiến thắng chóng vánh đầy mưu lược của Trung Quốc và việc phải
thực hiện đơn phương ngừng bắn sau đó vẫn còn là một ký ức đáng xấu hổ đối với
giới chính trị Ấn Độ. Tháng 10 vừa qua, báo chí Ấn Độ đã đăng tải rất nhiều bài
viết chi tiết và sâu sắc về hệ quả của cuộc chiến.
Bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ A.K.
Antony mới đây đã đến khu vực biên giới Đông Bắc và phát biểu về những ký ức
của cuộc chiến cũng như tình thế quân sự hiện nay rằng: "Cơ sở hạ tầng tại
Đông Bắc hiện chưa khiến chúng ta hài lòng nhưng đã được nâng cấp rất nhiều so
với trước đây… cơ sở hạ tầng, tài lực và nhân lực, tất cả mọi thứ đã được cải
thiện. Ấn Độ của năm 2012 không phải là Ấn Độ của thời kỳ đó. Chúng ta hiện có
đủ khả năng bảo vệ từng tấc đất của chúng ta".
Trong khi đó, cuộc chiến gần như đã
bị quên lãng tại Trung Quốc. Một cuộc thăm dò dư luận do tờ Thời báo Hoàn Cầu
tiến hành cho thấy chỉ 15% người trưởng thành tại các đô thị Trung Quốc tham
gia trả lời biết về cuộc chiến. Mã Lập – chuyên gia thuộc Viện Nghiên cứu Quan
hệ Quốc tế Hiện đại Trung Quốc giải thích về sự khác biệt này: "So với
người Ấn Độ, những người ghi nhớ sâu sắc về cuộc chiến vì họ đã thất bại, rất
ít người Trung Quốc biết về cuộc chiến".
Lý do về ký ức mờ nhạt của người
Trung Quốc cũng có thể được giải thích theo cách khác ngoài việc họ chiến
thắng. Một cuộc chiến thắng lợi trước một nạn nhân châu Á của đế quốc phương
Tây có thể không mang lại tiếng vang tốt cho hình ảnh của Trung Quốc. Ngoài ra,
người Trung Quốc hiện tập trung quan tâm đến các vấn đề kinh tế và trong nước.
Cuối cùng, tâm trí của người Trung Quốc bị chiếm giữ bởi chiến thắng rực rỡ
trong cuộc kháng chiến chống Nhật.
Môi trường chiến lược
Sự đối đầu tổng thể và về quân sự
vẫn duy trì hiện nay giữa Ấn Độ và Trung Quốc tập trung vào các mối bận tâm
chiến lược một cách tương đồng đáng ngạc nhiên. Cả hai nước đều cảm thấy bị bao
quanh bởi sự thù địch, hay các đối thủ tiềm tàng. Một cái nhìn lướt qua trên
bản đồ có thể giải thích tại sao vị trí địa lý của Ấn Độ lại khiến Ấn Độ nhạy
cảm trong việc lo sợ về những gì bao quanh. Phía Tây là kẻ thù “anh em”
Pakixtan mà Ấn Độ đã có tới ba cuộc chiến. Mặc dù đường biên giới đã khá yên ả,
Ấn Độ và Pakixtan vẫn tranh chấp quyền kiểm soát khu vực Casơmia, và đối đầu
với nhau về các kho vũ khí hạt nhân mới đang ngày càng tăng. Trung Quốc, quốc
gia không ngừng tăng cường sức mạnh và là kẻ chiến thắng trong cuộc chiến chóng
vánh cách đây 50 năm, nằm ở biên giới phía Bắc Ấn Độ. Đáng ngại nhất, Trung
Quốc và Pakixtan là đồng minh thân cận trong hơn năm thập kỷ qua.
Trung Quốc cũng có cảm giác bị o ép
tương tự. Sự quay trở lại châu Á của Mỹ, cùng với tranh chấp chủ quyền hiện nay
với Nhật Bản, Philíppin và Việt Nam gây áp lực bên sườn Trung Quốc. Trong khi
mối quan hệ hiện tại với Nga tương đối thân thiện, điều hiếm thấy khi nhìn lại
lịch sử. Ápganixtan và các quốc gia đa phần là Hồi giáo khác nằm ở phía Tây
Trung Quốc được xem là một nguy cơ tiềm tàng cho sự mất ổn định của các khu vực
biên giới với người Hồi giáo của Trung Quốc. Phía Nam Trung Quốc là Ấn Độ, một
thế lực kinh tế đang phát triển và một cường quốc hạt nhân mới. Trung Quốc xem
mối quan hệ an ninh và chính trị đang phát triển giữa Oasinhtơn, Niu Đêli và
Tôkyô là một mối đe dọa tiềm tàng về lâu dài.
Đang có một “bữa tiệc khiêu vũ” lạ
mắt giữa Ấn Độ, Trung Quốc, Mỹ và Pakixtan trên lục địa châu Á. Mặt khác, Mỹ,
do tình hình bạo lực tại Ápganixtan, phải duy trì bằng được mối quan hệ không
mấy yên ả với Pakixtan. Cùng lúc đó, Oasinhtơn cố gắng thuyết phục để Ấn Độ trở
thành đồng minh ngầm chống lại Trung Quốc.
Hàng tỷ USD viện trợ quân sự của Mỹ
cho Pakixtan làm phức tạp thực sự những nỗ lực chiều lòng Ấn Độ. Quan hệ đồng
minh của Trung Quốc với Pakixtan cũng làm phức tạp các cuộc thương lượng của
Trung Quốc với Ấn Độ. Trong khi đó, Trung Quốc cảm thấy không tin tưởng
các nước lớn, và đang nỗ lực bảo đảm hòa bình lâu dài với Pakixtan để nhận được
nhiều lợi thế địa chính trị hơn nữa.
Bên cạnh những lo ngại địa chính trị
cơ bản này là những lo lắng về sự chia rẽ và mất ổn định trong nước. Trung Quốc
và Ấn Độ là “cái nôi của nền văn minh” tồn tại vô số nhóm sắc tộc và ngữ hệ.
Nguyên nhân chủ yếu của bất đồng giữa Trung Quốc với Ấn Độ là sự hỗ trợ của Ấn
Độ đối với Đạtlai Lạtma và chính phủ lưu vong của Đạtlai Lạtma đóng tại
Dharamsala, miền Bắc Ấn Độ. Vùng lãnh thổ phía Tây rộng lớn của Trung Quốc,
giáp giới với Ấn Độ, là nơi sinh sống của các nhóm thiểu số cứng đầu cứng cổ.
Vì những lý do địa chính trị và lịch sử đó, Chính phủ Trung Quốc vẫn hết sức
thận trọng đối với mọi nguy cơ đe dọa đến toàn vẹn lãnh thổ.
Niu Đêli cũng đối mặt với vô số nguy
cơ trong nước. Các nhóm phiến quân Casơmia, nhóm du kích Maoít và các nhóm bộ
tộc nổi dậy tại vùng cực Đông Bắc đe dọa đến chủ quyền của Niu Đêli. Cũng như
việc Ấn Độ hỗ trợ chính trị cho Đạtlai Lạtma, Trung Quốc, trong quá khứ, cũng
hỗ trợ hậu cần cho một số lực lượng vũ trang nổi dậy bên trong Ấn Độ.
Những lo lắng chiến lược tương đồng
giữa hai quốc gia bên sườn núi Himalaya chỉ là một trong nhiều lĩnh vực mà
Trung Quốc và Ấn Độ cùng chia sẻ sâu sắc. Cả hai vùng đất cùng thừa kế hàng
nghìn năm truyền thống văn hóa. Cả hai cùng phát triển kinh tế chóng mặt trong
vài thập kỷ gần đây. Cả Bắc Kinh và Niu Đêli cùng hăm hở bước lên vũ đài quốc
tế và tuyên bố về vị thế xứng đáng của mình sau hàng thế kỷ phải trải qua sự
xấu hổ, quản lý yếu kém và sự chịu đựng lạ thường.
Bất chấp lịch sử đầy tranh cãi, mối
quan hệ Trung-Ấn đã được cải thiện đáng kể trong thập kỷ vừa qua. Năm 2005, Thủ
tướng Ấn Độ Manmohan Singh và Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào đã ký một hiệp ước
để giải quyết một cách hòa bình tranh chấp biên giới và triển khai "mối
quan hệ đối tác chiến lược". Trong suốt cuộc gặp thượng đỉnh quan trọng
này, Trung Quốc đã công nhận chủ quyền của Ấn Độ đối với vương quốc Sikkim tại
Himalaya trước kia và bày tỏ ủng hộ nỗ lực của Niu Đêli trở thành ủy viên
thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh thì
ca ngợi mối quan hệ đối tác tiềm năng Trung-Ấn với tuyên bố "Ấn Độ và
Trung Quốc có thể cùng nhau lập lại trật tự thế giới".
Và quả thực là hai nước có thể. Vượt
qua mọi cú sốc không thể lường trước trong cuộc đua, Trung Quốc và Ấn Độ sẽ trở
thành các nền kinh tế lớn nhất thế giới vào cuối thế kỷ này. Tăng trưởng kinh
tế ấn tượng đạt được của hai nước đã chuyển dịch sự cân bằng sức mạnh tài chính
và kinh tế thế giới về phía Đông bán cầu. Khi mà các nền kinh tế mới nổi này
vẫn còn một số lượng lớn dân nghèo, cả hai đã đề xuất hỗ trợ chính trị chung
những thỏa thuận thay đổi môi trường phù hợp với riêng từng nước.
Nguồn lực tài chính mạnh của Trung
Quốc có thể đầu tư cho các dự án hạ tầng đầy tham vọng tại Ấn Độ mang lại lợi
ích chung. Quan trọng nhất, thương mại song phương giữa Ấn Độ và Trung Quốc đã
được mở rộng nhanh chóng và hiện có giá trị gần 75 tỷ USD mỗi năm. Trung Quốc là
đối tác thương mại lớn nhất của Ấn Độ.
Nền tảng rộng lớn của những lợi ích
chung đó có thể không hoàn toàn dung hòa được những lo lắng địa chính trị.
Thương mại tốt, tuy nhiên nguy cơ bất ngờ cắt đứt quan hệ giữa hai cường quốc
và đang phát triển là vẫn có khả năng xảy ra. Tuy nhiên, sự cân bằng trong yếu
tố quân sự Trung-Ấn có thể hoàn toàn vô hiệu hóa những lo ngại chung về sự bao
vây quân sự.
Điểm mấu chốt trong quan hệ
Trung-Ấn
Trung Quốc và Ấn Độ đã đạt tới một
trạng thái hai bên cùng đảm bảo khả năng hủy diệt lẫn nhau. Vụ phóng thành công
tên lửa đạn đạo xuyên lục địa Agni V của Ấn Độ hồi tháng 4 có thể đưa toàn bộ
lãnh thổ Trung Quốc vào trong tầm của hệ thống tên lửa chiến lược của Ấn Độ.
Việc triển khai này, cùng với việc triển khai năng lực tấn công thứ hai dựa vào
tàu ngầm, đã cho phép Ấn Độ vươn tới mức đáng tin cậy về năng lực phòng thủ hạt
nhân đối phó với Trung Quốc. Cả hai bên hiểu rằng không được để xảy ra một cuộc
chiến Trung-Ấn nữa, vì cả Bắc Kinh và Niu Đêli đều không thể đảm bảo một cuộc
xung đột như vậy sẽ không leo thang thành một cuộc chiến hạt nhân toàn
diện.
Như chuyên gia Mã Lập nhận định:
"Không thể tưởng tượng được khi hai cường quốc vũ trang hạt nhân xảy ra
chiến tranh". Lo lắng về sự bao vây địa chính trị đã thành lỗi thời với
suy luận tàn ác rằng cả hai bên sẽ cùng hủy diệt.
Sau vụ Ấn Độ phóng thử thành công
tên lửa Agni V hồi tháng 4, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã ra tuyên bố hòa giải
đáng chú ý khi xem xét đến khả năng tên lửa đạn đạo đã được cải thiện của Ấn
Độ. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Lưu Vi Dân phản hồi về vụ phóng
tên lửa với tuyên bố “Trung Quốc và Ấn Độ là hai quốc gia lớn đang phát triển.
Chúng ta không phải là đối thủ mà là đối tác… Chúng tôi tin rằng cả hai bên cần
trân trọng các quan hệ tốt đẹp đã dày công đạt được ở thời điểm hiện tại, và nỗ
lực gìn giữ sự hợp tác chiến lược thân thiện để thúc đẩy phát triển chung cũng
như đóng góp tích cực để gìn giữ hòa bình và ổn định khu vực”. Tuyên bố này rất
thân thiện và khác xa so với tuyên bố từ một cường quốc hạt nhân thù
địch.
Do Trung Quốc và Ấn Độ không bao giờ
được tiến tới chiến tranh, họ không có lựa chọn nào ngoài hợp tác. Tiềm năng
lớn của lợi ích chung có thể đạt được nếu cả hai bên hành động vì lợi ích lâu
dài. Quả vậy, các lĩnh vực tăng cường hợp tác giữa hai nước có dân số đông nhất
thế giới đã mở rộng vượt xa ngoài các lĩnh vực chính trị và kinh tế truyền
thống.
Thế mạnh của Ấn Độ hầu hết là điểm
yếu của Trung Quốc, và thành tích hiện tại của Trung Quốc lại là hình ảnh đối
ngược những thất bại của Ấn Độ. Thành công ấn tượng của Trung Quốc trong việc
giúp phần lớn người dân nước này thoát khỏi cảnh nghèo đói cùng cực trong ba
thập kỷ qua đối lập với những vấn đề tồn tại dai dẳng tại Ấn Độ như mù chữ và
suy dinh dưỡng tràn lan. Mức độ thiếu thốn vật chất cùng cực tại các thành phố
và làng quê của Ấn Độ đã vượt xa những gì có thể thấy trong hiện tại ở Trung
Quốc.
Mặt khác, Ấn Độ lại làm tốt hơn
Trung Quốc rất nhiều trong việc gìn giữ văn hóa truyền thống. Phần lớn người
dân Ấn Độ vẫn thích mặc các trang phục truyền thống hơn là quần áo phương Tây.
Ngành công nghiệp phim Bollywood và âm nhạc Ấn Độ rất phổ biến với người nước
ngoài, trong khi hầu hết văn hóa xuất khẩu hiện nay của Trung Quốc tương đối
tầm thường. Trong khi Trung Quốc làm tốt hơn trong việc cung cấp cho người dân
nước này các nhu yếu phẩm cần thiết, Ấn Độ lại có một nền văn hóa tiên tiến,
được duy trì liên tục lại thu hút được những người yêu thích trên khắp thế
giới.
Trung Quốc và Ấn Độ hoàn toàn phù
hợp với việc phát triển sự đối đầu thân thiện. Cả hai nước có nhiều điều phải
học hỏi lẫn nhau. Người dân hai nước rất tin tưởng vào mối quan hệ kinh tế được
cải thiện và tầm nhìn chiến lược, nhận ra sự vô nghĩa hoàn toàn của xung đột vũ
trang.
Bài học về thành công vật chất của
Trung Quốc có thể giúp hàng trăm triệu người dân Ấn Độ thoát khỏi nghèo đói.
Thành tích văn hóa của Ấn Độ có thể là một minh chứng giúp Trung Quốc bồi đắp
những lỗ hổng về tinh thần và sáng tạo. Nếu các nhà lãnh đạo Trung Quốc và Ấn
Độ có thể nhận ra những lo ngại và hy vọng chung, đồng thời khai thác những lợi
thế chung, thì những ký ức ám ảnh của cuộc chiến năm 1962 có thể ngủ yên trong
dĩ vãng.
Brendan P O’Reilly là nhà văn, nhà giáo dục trường Seattle hiện công tác tại
Trung Quốc. Ông là tác giả của “The Transcendent Harmony”. Bài viết được đăng
trên Asia Times Online.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét