NGUYỄN
CAO QUYỀN
Tháng 2 năm 2013
Chủ
nghĩa xã hội mang mầu sắc Trung Quốc là sản phẩm kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội
dân chủ của Marx-Engels và thực tiễn cụ thể trong công cuộc cải cách mở cửa của
Đặng Tiểu Bình năm 1978.
Đảng
Cộng sản Trung Quốc (CSTQ) chuyển sang hướng chủ nghĩa xã hội dân chủ là muốn
làm theo di huấn của Marx-Engelslúc cuối đời.
Về
mặt kinh tế họ đã triệt để ly khai với mẫu hình Liên Xô và định vị lại lịch sử
của chủ nghĩa xã hội để tiến cùng thời đại.
Tuy
nhiên, về mặt chính trị, họ vẫn còn nhiều khó khăn chưa giải quyết vì “cánh tả”
trong Đảng vẫn còn đó và vẫn còn là một trở ngại chưa thể vượt qua.
Để
tìm hiểu sư chuyển biến của Trung Quốc từ chủ nghĩa xã hội bạo lực sang chủ
nghĩa xã hội mang mầu sắc Trung Quốc, cần duyệt qua nhiều giai đoạn.
Những
đoạn viết tiếp theo sẽ diễn tả tiến trình chuyển hóa khó khăn này.
Tư tưởng Mao Trạch
Đông trong thời kỳ ở Diên An
Tháng
10/1940, khi còn ẩn náu ở Diên An, Mao Trạch Đông đã cho ra mắt một tác phẩm
mang tựa đề
“Bàn
Về Chủ Nghĩa Dân Chủ Mới”.
Trong
tác phẩm này, Mao chủ trương thiết lập chính phủ liên hiệp và phản đối chuyên
chính độc đảng. Mao cũng công nhận quyền tư hữu trong một nền kinh tế nhiều
thành phần, quan tâm cả công hữu lẫn tư hữu và thực hiện một chính sách vừa
đoàn kết vừa đấu tranh với giai cấp tư sản.
Mao
nhận định:
“Hiện
nay chúng ta thiết lập xã hội dân chủ mới, vừa mang tính tư bản chủ nghĩa vừa
mang tính quần chúng nhân dân. Đây không phải là chủ nghĩa tư bản cũ mà là chũ
nghĩa tư bản mới, gọi là
“chủ
nghĩa dân chủ mới”.
Khi
một phóng viên hãng thông tấn Reuter đặt câu hỏi:
“Ông
định nghĩa thế nào là Trung Quốc tự do dân chủ ?”
Mao
trả lời:
“Trung
Quốc tự do dân chủ là một nước mà chính quyền các cấp từ địa phương cho đến
trung ương đều ra đời thông qua việc bỏ phiếu kín, phổ biến, bình đẳng và chịu
trách nhiệm trước nhân dân. Nhà nước đó sẽ thực hiện chủ nghĩa Tam Dân của Tôn
Dật Tiên, ba nguyên tắc dân có, dân trị, dân hưởng của Lincoln, bốn tư tưởng lớn
của Roosevelt và sẽ bảo đảm đất nước đoàn kết, thống nhất, hợp tác với các cường
quốc dân chủ”.
Chủ
nghĩa dân chủ mới của Mao Trạch Đông, vì mang mầu sắc tự do nên đã lôi cuốn được
giai cấp trung gian (tư sản dân tộc) và đó là nguyên nhân quan trọng khiến cách
mạng vô sản nhanh chóng thành công.
Lý
luận “dân chủ mới” là tinh hoa của tư tưởng Mao Trạch Đông
Tại
cuộc họp trù bị Hội nghị Trung ương 3 khóa 7 tháng 6/1950 Mao nói:
“Hợp
tác với giai cấp tư sản là điều khẳng định, nếu không thì cương lĩnh của chúng
ta sẽ trở thành giấy trắng, không lợi về chính trị lại thiệt thòi về kinh tế…Duy
trì công thương nghiệp tư doanh, một là duy trì sản xuất, hai là duy trì công
nhân, ba là để cho công nhân được hưởng một số phúc lợi. Đương nhiên trong số
đó cũng phải dành cho nhà tư bản một phần lợi nhuận nhất định. Nói một cách
tương đối, hiện nay phát triển công thương nghiệp tư doanh, tuy có lợi cho nhà
tư bản nhưng còn có lợi hơn cho công nhân và nông dân”.
Thật
là một tư tưởng trong sáng, một nhận định hợp thời.
Tiếc
thay, tư tưởng này không kéo dài được bao lâu thì Mao lại quay về với lý luận
chủ nghĩa xã hội không tưởng trong Tuyên ngôn Đảng Cộng sản năm 1848.
Mao Trạch Đông trở mặt
và bản di huấn sau khi cướp chính quyền
Năm
1949 sau khi Tưởng Giới Thạch chạy ra đảo Đài Loan, nhân dân Trung Quốc hy vọng
Mao Trach Đông thực hiện lời hứa dân chủ thời Diên An, là làm cho Diên An trở
thành Washington của Trung Quốc. Nhưng khi vào được Trung Nam Hải thì Mao trở mặt
tuyên bố ông vừa là Marx vừa là Tần Thủy Hoàng.
Ở
ngôi chúa tể, Mao nhận định là các nước Tây Phương, Anh, Mỹ, Pháp, Đức, Nga, và
Nhật Bản đã chiếm của Trung Quốc hàng trăm ngàn dặm vuông lãnh thổ và hàng tá
nhượng địa. Mao thề phải phục hận và lấy lại những gì đã mất.
Trong
chương trình thu hồi lãnh thổ và lãnh hải, Mao chú trọng đầu tiên đến Biển Đông
và nói với các tướng lãnh:
“Bắt
đầu từ lúc này Thái Bình Dương không còn an bình nữa và an bình chỉ trở lại khi
nào chúng ta làm chủ vùng biển này”.
Năm
1952, trong một buổi họp các lãnh đạo tỉnh, Mao nói:
“Chúng
ta phải kiểm soát toàn thế giới, phải lập một Ủy Ban Kiểm Soát Toàn Cầu và hoạch
thảo một kế hoạch để thi hành nhiệm vụ này”.
Mao
cũng ra lệnh phải quần tụ lại với các chư hầu cũ và gom góp các tiểu nhược quốc
đàn em dưới quyền lãnh đạo của Bắc Kinh. Với một ý chí sắt đá, Mao quyết định
là tất cả những việc này sẽ được tiến hành và hoàn tất bằng binh lực.
Để
lời nói đi đôi với việc làm, Mao đã can thiệp vào chiến tranh Cao Ly giúp Bắc
Triều Tiên, xâm chiếm Tây Tạng, bắn phá các đảo Kim Môn, Mã Tổ đe dọa Đài Loan,
gây chiến với Ấn Độ ở vùng biên giới phía Nam, xích mích với Liên Xô trong vùng
biên giới phía Bắc và viện trợ ồ ạt cho cộng sản Việt Nam
Bản
đồ mới này bao gồm tất cả vùng Đông Nam Á: Việt Nam, Lào, Cao Miên, Miến Điện
Thái Lan, là những nước có biên giới tiếp giáp với Trung Quốc; những nước có
căn cứ quân sự Hoa Kỳ hoặc do Hoa Kỳ chiếm giữ sau Chiến Tranh Lạnh như Nam Triều
Tiên, Nhật Bản, Phi Luật Tân, Tân Gia Ba, Hong Kong, Ma Cao, Mã Lai Á, Nam
Dương; và các phần đất Nội Mông, Mãn Châu, Tân Cương trong tay Liên Xô.
Tất
cả đều là những mục tiêu phải giành lại, dưới con mắt của Mao.
Mao
chết năm 1976.
Chương
trình phục hận của Mao được các thế hệ lãnh đạo tiếp nối tiến hành.
Thật
ra khi còn tại vị, Mao đã tàn bạo hơn Tần Thủy Hoàng rất nhiều bước “Nhảy Vọt Lớn” với 37,5 triệu người chết
đói đã trở thành bạo chính lớn nhất cổ kim trong và ngoài nước.
Đánh giá lại Mao Trạch
Đông
Sai
lầm lớn nhất của Mao sau ngày dựng nước là đã từ bỏ lý luận kiến quốc “dân chủ
mới” và vội vã thực hiện giấc mơ xây dựng “xã hội đại đồng”.
Sau
6 năm cầm quyền Mao đã dựa vào tuyên truyền và bạo lực để cải tạo xã hội.
Thời
gian 1956-1976 là 20 năm chủ nghĩa xã hội bạo lực đã phát triển ác tính và phá
nát dân tộc cùng đất nước Trung Hoa.
“Nghị
quyết về một số vấn đề lịch sử từ ngày dựng nước”
do
Đặng Tiểu Bình chủ trì vào tháng 6/1981 đã có một vai trò lịch sử và là một
công lao vĩ đại trong việc định rõ và điều chính sai lầm của Mao sau ngày dựng
nước.
Nghị
quyết đó đã đưa Trung Quốc đi lên con đường “cải cách mở cửa”.
Tuy
nhiên vì sự điều chỉnh chưa được triệt để nên một vài khiếm khuyết tả khuynh
hãy còn tồn tại.
Sau
khi Mao qua đời (1976), trong và ngoài nước đều vang lên tiếng hô dữ dội
“Thời
cơ đánh giá lại Mao Trạch Đông đã chín muồi”.
Nghị
quyết nói trên đã khẳng định tính đúng đắn của cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với
công thương nghiệp tư bản tư doanh và dành cho nó một địa vị chính thống trong
lịch sử.
Cũng
phải kể thêm cả sự sáng suốt dành cho vấn đề bảo hộ chế độ tư hữu vào hiến pháp
vì vấn đề này không thể thiếu để hỗ trợ triệt để cho “cải cách mở cửa”.
Tuy
nhiên, đến đây cần phải nhắc đến một điểm đặc biệt cần ghi nhận: để giữ sự nhất
trí với nghị quyết nói trên, Đặng và môn đệ đã phải áp dụng chính sách “bật tín
hiệu rẽ trái, bẻ tay lái sang phải” vì “cánh tả” cực đoan và bảo thủ không ngớt
lên tiếng buộc tội phục hồi chủ nghĩa tư bản.
Họ
nói “cải cách mở cửa” đã làm hỏng hết sự nghiệp vĩ đại của Mao Trạch Đông.
Ba
thập kỷ sau khi Mao chết, công cuộc giải phóng lực lượng sản xuất đã đạt được
những thành tích lẫy lừng chưa từng thấy.
Người
ta thuật lại câu chuyện sau đây để nhắc nhở người đời:
Năm
1975, Trung Quốc cử Đặng Tiểu Bình dẫn một phái đoàn sang Mỹ dự kỳ họp đặc biệt
của Liên Hiệp Quốc; vì không thể dùng nhân dân tệ cho chi phí của phái đoàn nên
lệnh khẩn cấp ban ra cho các ngân hàng gom góp đô la Hoa Kỳ; tổng số gom được
lúc đó chỉ là 38.000 USD.
Vậy
mà sau 30 năm phát triển sản xuất, dự trữ ngoại tệ hiện nay của Trung Quốc là
1.200 tỷ USD, vượt Nhật Bản và đứng đầu thế giới.
Thời kỳ Đặng Tiểu
Bình và con đường “cải cách mở cửa”
Đặng
Tiểu Bình, kế thừa lý luận xây dựng một nước dân chủ mớicủa Mao Trạch Đông và
tham khảo thêm kinh nghiệm của chủ nghĩa xã hội dân chủ Âu Châu, đã hình thành
con đường “cải cách mở cửa” và tạo nên mẫu hình “chủ nghĩa xã hội mang mầu sắc
Trung Quốc”
Tháng
3/2004, Kỳ Họp Thứ 2 Quốc Hội Khóa 10, đưa ra tư tưởng quan trọng “ba đại diện”
và điều khoản công nhận “chế độ tư hữu” vào hiến pháp.
Đó
là cải cách chính trị quan trọng nhất ở Trung Quốc kể từ ngày “mở cửa” đến nay.
Đoàn kết với giai cấp tư sản không phải là ủng hộ “bóc lột” mà là sử dụng họ
vào việc quản lý kinh tế để nâng cao hiệu qủa sản xuất, góp phần tăng thêm tổng
lượng của cải xã hội.
Nguyên
nhân căn bản dẫn đến thất bại toàn diện ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
Đông Âu vào cuối thế kỷ 20 là do không đại diện cho yêu cầu phát triển của lực
lượng sản xuất tiên tiến, là thực hiện sai lầm chính sách đối với giai cấp tư sản.
Thay
đổi hợp lý chính sách đối với giai cấp tư sản là sự tổng kết sâu sắc nhất của
giới lãnh đạo Trung Quốc (thế hệ thứ ba và thứ tư) về bài học thất bại của
phong trào cộng sản quốc tế, là sự phát triển sáng suốt nhất của lý luận Đặng
Tiểu Bình.
Giờ
đây, đối với giai cấp tư sản, Đảng CSTQ tiếp tục thực hiện chính sách vừa đoàn
kết, vừa đấu tranh.
Đoàn
kết để bảo đảm việc phân phối lợi ích cho công nhân, nông dân và cho toàn xã hội.
Đấu tranh để bảo hộ chế độ tư hữu và thúc đẩy lực lượng sản xuât tiên tiến phát
triển nhanh chóng.
Cùng
giàu có không phải là tước đoạt tài sản của người khác mà làm cho mọi người
cùng giàu lên, cùng được hưởng thành quả của phát triển.
Đây
là then chốt để chính trị ổn định lâu dài và cũng là then chốt để kinh tế tăng
trưởng liên tục.
Cuộc
sửa đổi hiến pháp với sự công nhận nguyên tắc “ba đại diện” và “quyền tư hữu”
đã điều chỉnh những sai lầm nghiêm trọng nhất của chủ nghĩa xã hội bạo lực. /.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét